Tin Tức Trong Và Ngoài Nước: Lịch sử Việt Nam

Báo Tuổi Trẻ và Pháp Luật Tin Nhanh 24h

Lịch sử hơn 600 năm của tiền giấy Việt Nam

1:53 PM |
Đồng tiền giấy đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Việt Nam là “Thông bảo hội sao” (1396) do Hồ Quí Ly phát hành. Hơn 6 thế kỷ sau, tiền giấy ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong đời sống, kinh tế Việt Nam.

Thông bảo hội sao…

Thời phong kiến, mỗi triều đại thường cho đúc một loại tiền riêng, bao gồm tiền đồng, tiền kẽm, tiền sắt và cả một số loại tiền giấy như: “Thái bình thông bảo” thời nhà Đinh và “Thiên phúc trấn bảo” thời Tiền Lê. Tuy nhiên, “Thông bảo hội sao” là loại tiền giấy đầu tiên do nhà Hồ phát hành vào năm 1396. Đó là một thời điểm rất sớm so với lịch sử tiền giấy nhưng lúc đó, chính sách ban hành tiền giấy không hề được đánh giá là tiến bộ.
Khi in xong, nhà Hồ hạ lệnh cho người đem tiền đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền. Cấm hẳn tiền đồng không được chứa và tiêu riêng. Ai làm giả phải tội chết, tịch thu điền sản vào nhà nước.
Nước ta đã trải qua 6 lần đổi tiền từ sau Cách mạng tháng 8.
Như vậy, đồng tiền giấy này đã được đưa vào trong lưu thông một cách triệt để. Cách phát hành tiền là đổi hoàn toàn tiền cũ lấy tiền mới, nên về lí thuyết nó không ảnh hưởng gì tới giá trị đồng tiền mà thậm chí đó là một tư tưởng tiến bộ giúp tiết kiệm kim loại và sử dụng tiền thuận tiện hơn. Tuy nhiên, để tiền giấy ra đời và đi vào đời sống thực tế phải có những tiền đề kinh tế xã hội, phù hợp… Với một thực tế lịch sử chưa cho phép, chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly đã thất bại.
Thời kỳ Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp. Đơn vị tiền tệ cả khu vực là Piastre, thường gọi là “bạc”. Lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27,73 gam, sau đó có đồng bạc Đông Dương nặng 27 gam. Ngân hàng Đông Dương cũng phát hành cả tiền giấy, đó là tờ tiền giấy in hình 3 thiếu nữ với những bộ trang phục truyền thống của 3 nước

Những đợt đổi tiền thời hiện đại

Kể từ ngày 1/12/1945, khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đồng tiền đầu tiên là đồng tiền nhôm loại 2 hào, cho đến nay chúng ta đã có rất nhiều các loại tiền xu, tiền giấy, tiền polymer khác nhau.
Đi cùng lịch sử phát hành tiền là những lần chúng ta thực hiện đổi tiền, có thể tổng kết những lần đổi tiền từ sau Cách Mạng Tháng Tám cho đến nay như sau:
Lần thứ nhất vào ngày 15/5/1947, Chính phủ ra sắc lệnh 48/ SL cho phép lưu hành trong cả nước giấy bạc 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 500 đồng. Đồng thời nhà nước thực hiện thu đổi đồng bạc Đông Dương, tỷ lệ 1 đồng Việt Nam lấy 1 đồng bạc Đông Dương
Lần thứ hai vào ngày 6/ 5/ 1951, tại Sắc lệnh số 15/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký chuẩn y việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam (NHQG VN) (để thay thế “Nha ngân khố quốc gia” và “Nha tín dụng sản xuất” trực thuộc Bộ Tài Chính). Ngay khi ra đời, theo sắc lệnh số 19/SL và 20/SL ngày 12/5/1951, NHQG đã chính thức phát hành đồng tiền giấy mang tên: "NHQG Việt Nam" thay đồng tiền Tài chính. Đổi 10 đồng tiền Tài chính ăn 1 đồng tiền NHQG. Đây là một cuộc đổi tiền diễn ra tới 20 tháng, dài nhất trong lịch sử đổi tiền của NHVN.
Lần thứ ba, vì tiền NHQG đầu tiên được in ra năm 1951 là để đổi đồng Tài chính trước đó nên hầu hết những người có tiền đổi là thuộc khu vực công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước nên đến tháng 2 năm 1959 Chính Phủ quyết định phân phối lại thu nhập và đã đổi tiền lần thứ 2 với tỷ lệ 1 đồng NHQG mới ăn 1000 đồng NHQG cũ.
Với giá trị mới này, vào thời điểm từ tháng 2/1959 đến tháng 10/1960 một đồng NGQGVN bằng 1,36 Rúp Liên Xô và cũng tương đương 1,2 USD. Cuộc đổi tiền năm 1959 được đánh giá là “ngoạn mục” nhất trong lịch sử tiền tệ Việt Nam. Đến tháng 10/ 1961 đồng tiền NHQG VN ở miền Bắc được đổi tên thành đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt nam (NHNN VN) với cùng một mệnh giá để tránh trùng tên với đồng tiền NHQG ở miền Nam của chính phủ nguỵ quyền Sài Gòn.
Lần thứ tư, trong 3 năm đầu sau ngày miền Nam giải phóng, để có một thời gian đệm cần thiết và quan trọng, hai miền vẫn dùng hai đồng tiền khác nhau: Miền Bắc vẫn là tiền NHNN Việt Nam, miền Nam tiếp tục dùng tiền của chính quyền cũ. Ngày 3/5/1975 chính quyền cách mạng tiếp quản NHQG của Nguỵ quyền Sài Gòn và vẫn sử dụng đồng tiền của chế độ cũ trong lưu thông để không gây rối loạn trong lưu thông tiền tệ ở miền nam những ngày đầu giải phóng.
Ngày 6/6/1975 - 5 tuần sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định số 04/PCT - 75 về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc. Đến ngày 22/ 9/1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà miền nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên qui mô toàn miền nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là "Tiền Ngân hàng Việt Nam" (còn gọi là tiền giải phóng) vào lưu thông với tỷ lệ 1 đồng NHVN ăn 500đ tiền của chế độ cũ và tương đương với 1 USD
Lần thứ năm, ngày 2/5/ 1978, Nhà nước CHXHCN Việt Nam công bố đổi tiền lần thứ 3 trên phạm vi toàn quốc, thống nhất tiền tệ cả nước với tỷ lệ 1đồng tiền NHNN cũ ở miền Bắc hoặc 0,8 đồng tiền Giải phóng ở miền Nam ăn 1đồng NHNN mới.
Và lần gần đây nhất, ngày 14/9/1985 Nhà nước lại phải công bố đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền NHNN cũ ăn 1 đồng tiền NHNN mới
Như vậy, kể từ đồng tiền giấy “Thông bảo hội sao” do nhà Hồ phát hành năm 1396 đến đồng tiền hiện đại Polymer, hơn 600 năm đã trôi qua với vô số những thăng trầm của đồng tiền giấy nhưng qua đó tiền giấy ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình.
Theo Vietnamnet
Xem thêm…

Người con gái chưa từng gặp của người vẽ lá cờ Tổ quốc

1:43 PM |
Trước khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, Nguyễn Hữu Tiến đã tự tay vẽ lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh. Hình ảnh này sau đó được in trên tờ nhật báo Tiến Lên cùng với 1 bài thơ do ông sáng tác kêu gọi nhân dân đoàn kết chiến đấu.
Cụ Nguyễn Thị Xu (84 tuổi, trú thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, Hà Nam) là người con duy nhất của liệt sĩ Tiến - tác giả lá cờ Tổ quốc. Vừa lau chùi bàn thờ cha, cụ Xu vừa bảo: “Vậy là đã tròn 72 năm ngày cha tôi mất, tôi vẫn nhớ những kỷ niệm về cha mình qua lời kể của mọi người”.
Ký ức về người cha chưa một lần gặp mặt
Trong ký ức của cụ Xu, hình ảnh về người cha – liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến rất mờ ảo, bởi hai cha con họ chưa một lần được gặp mặt nhau. Gạt dòng nước mắt còn sót lại sau bao nhiêu năm ngóng tin liệt sĩ Tiến trong tuyệt vọng, cụ Xu tâm sự, cụ là người con duy nhất trong gia đình liệt sĩ Tiến, gia cảnh vô cùng túng thiếu, giặc Pháp càn quét khắp bản làng khiến cụ Xu không được đến trường học. Hưởng ứng lời kêu gọi hiệu triệu của cách mạng, liệt sĩ Tiến đã bỏ lại sau lưng người vợ và đứa con chưa chào đời, bố mẹ già mù để lên đường vào trận chiến.
Cụ Nguyễn Thị Xu tâm sự về ký ức với người cha – liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến.
“Ngày đó không được yên bình như bây giờ. Cả ngày lẫn đêm, trên thì giặc trút bom, dưới đất thì chúng càn quét bắn giết dân nghèo. Chúng tôi làm ra củ khoai, hạt kê nào thì phải giao nộp cho chúng hết cả nên cái đói, cái khát cứ đeo đẳng mãi không buông tha; xác chết đói nằm rải rác khắp mọi nơi…”, cụ Xu nhớ lại.
Từ khi liệt sĩ Tiến ra đi, được sự động viên của gia đình, mẹ cụ Xu đã “đi bước nữa” sinh ra 3 người con. Sau ngày mẹ đi lấy chồng, cụ Xu về ở với cô ruột (em gái liệt sĩ Tiến) được vài năm thì cô mất, từ đó cụ Xu sống một mình đến nay.
“Lớn lên, tôi mới được nghe người nhà kể về cha mình, rồi được nghe đài báo nói nên mới biết thêm chứ tôi chưa một lần được gặp mặt cha. Đêm đêm, tôi nằm mơ thấy cha hiện về ngồi bên cạnh vỗ về tôi. Tôi giật mình thức giấc gọi tên cha nhưng rồi chỉ thấy một thân mình cô quạnh trong túp lều neo đơn chứ đó không phải là sự thật. Trong mơ, tôi trông thấy cha Tiến vẫn còn rất trẻ, đẹp trai; giọng cha ấm áp…”, cụ Xu hồi tưởng.
Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến.
Sau khi bị địch bắt xử bắn, liệt sĩ Tiến được chôn tại một địa điểm trong chiến trường miền Nam. Qua nhiều lần đi tìm hài cốt nhưng vẫn không thấy, cách đây hơn 7 tháng, nhờ một người quen, gia đình cụ Xu đã tìm thấy hài cốt liệt sĩ Tiến ở khu vực huyện Hóc Môn (TP. Hồ Chí Minh).
“Hơn 70 năm nằm lạnh lẽo dưới đất, hài cốt cha tôi chỉ còn lại một mẫu đất và cọng sắt chính là gông cùm giặc giam cầm cụ. Dù chỉ còn lại như thế nhưng chúng tôi cũng cảm thấy may mắn khi đã tìm thấy bởi đâu đó, còn rất nhiều hài cốt liệt sĩ chưa được tìm thấy”, cụ Xu xúc động.
Hiến dâng trọn tuổi thanh xuân cho cách mạng
Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến, sinh ngày 5/3/1901 tại làng Lũng Xuyên. Từ nhỏ Nguyễn Hữu Tiến đã sớm giác ngộ cách mạng và tham gia vào các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp.
Năm 1930, Nguyễn Hữu Tiến cùng các đồng chí như Trần Tử Yến, Vũ Văn Uyển đứng ra thành lập Chi hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại làng Lũng Xuyên, theo quyết định của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây là tổ chức cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo tại Hà Nam, Nguyễn Hữu Tiến được tín nhiệm giữ chức Phó Bí thư phụ trách công tác tuyên truyền.
Suốt bao năm qua, một thân cụ Xu vẫn ngày ngày lo hương khói cho liệt sĩ Tiến, do không được nhà nước cấp chế độ.
Hoạt động được một thời gian thì ông bị địch bắt. Sau 2 năm bị tù đày ở Côn Đảo, chịu bao nhiêu khổ cực, được chỉ thị của Đảng bộ Côn Đảo, Nguyễn Hữu Tiến cùng 6 đồng chí khác vượt ngục thoát ra khỏi nhà tù trở về đất liền tiếp tục hoạt động cách mạng. Sau chuyến vượt ngục ấy, Nguyễn Hữu Tiến được Xứ ủy Nam Kỳ giao phụ trách liên tỉnh Đảng bộ Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá.
Tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng thông qua đề cương khởi nghĩa, được đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai mô tả lại một số lá Quốc kỳ của các nước. Tại đây chiến sĩ Nguyễn Hữu Tiến đã nung nấu ý định sẽ vẽ lá cờ Tổ quốc nhằm tuyên truyền cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Và trước khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ (23/11/1940), lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh lần đầu tiên được in trên trang nhật báo Tiến Lên, cùng với một bài thơ do chính ông sáng tác, kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết chiến đấu dưới lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc.
Ngay sau đó, Nguyễn Hữu Tiến đã vẽ lá cờ vào phiến đá và in ra nhiều bản cho chuyển xuống các cơ sở bí mật. Công việc in ấn gần xong thì lính Pháp ập đến bắt giữ.
Ngôi nhà nơi thờ tự liệt sĩ Tiến.
Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Nguyễn Hữu Tiến bị thực dân Pháp xử bắn vào ngày 28/8/1941. Trước khi ra pháp trường, ông đã để lại lời nhắn tha thiết về lòng yêu nước, căm thù giặc cũng như tinh thần bất khuất, cùng niềm tin vào tương lai. Những dòng nhắn nhủ của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến được in ra và treo ngay trên tấm chân dung của ông do cố nhạc sĩ Văn Cao vẽ:
"Vĩnh biệt hôm nay có mấy lời
Nhắn cùng đồng chí khắp nơi nơi
Tinh thần để lại cho non nước
Thù hận ghi sâu giữa đất trời
Án chém Hà Nam đà rũ sạch
Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai".
Hiện nay, cụ Xu đang là người chăm nom nơi thợ tự liệt sĩ Tiến. Không có lương, mang căn bệnh tim nên sức khỏe của cụ Xu rất yếu, gia cảnh khó khăn. “Không nhận được chế độ phụ cấp nào để có tiền lo hương khói cho cha Tiến, nhiều lúc tôi cũng thấy tủi thân lắm…”.
Thanh Lê
Theo Tri Thức

Xem thêm…

Ba lần gặp Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp

1:06 PM |
Không chỉ để lại ấn tựợng sâu sắc đối với những tướng lĩnh lừng danh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là vị tướng huyền thoại mà bình dị qua câu chuyện của những người lính, nghệ sĩ từng được dịp gặp ông.
Báo Tri thức trích đăng bài viết "Ba lần gặp Tổng tư lệnh" của họa sĩ Lê Trí Dũng, đăng trên tạp chí Xưa và nay số 268 tháng 9/2006. Bài viết này cũng đã được đăng tải lại trong cuốn sách Ở với người - Ở với đời do Nhà xuất bản Thời Đại phát hành vào năm 2012.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, vị chỉ huy lớn đánh thắng hai đội quân xâm lược là Pháp và Mỹ. Với những người làm công tác văn hóa, ông là anh Văn thân thiết. Còn với những người lính chúng tôi, dù đang còn mặc áo lính hay đã giải ngũ, ông là vị chỉ huy suốt đời, là "ông Tướng huyền thoại" của chúng tôi, còn là kỷ niệm không bao giờ quên được với ba lần gặp ông.
Họa sĩ Lê Trí Dũng trong lần gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu.
Lần thứ nhất, đó là những ngày giáp Tết Nhâm Tý đầu năm 1972, Sư đoàn Bộ binh 338 quân tăng cường Bộ tư lệnh Thủ đô đang cấp tập “rèn” quân ở Thạch Thành (Thanh Hoá). Ngày nào cũng đeo 10kg đá đựng trong sọt tre tự đan chạy 5km, sau đó là lăn, lê, xạ kích, võ thuật và đào giao thông hào. Đại đội đóng quân trong một bản người Mán, vùng bán sơn địa. Sung sức, tôi được giao khẩu B41, nặng và là hoả lực chính của đại đội.
Mùa đông năm ấy rất lạnh. Đêm nằm, chúng tôi mặc tất quần áo, quấn cả màn và áo mưa mà ngủ, chờ lệnh xuất quân vào B dài. Một đêm khoảng 12h đột nhiên có còi báo động rú lên. Lệnh xuất quân. Toàn bộ quân trang quân dụng phải mang đi hết. Lính tráng làu bàu: Đêm hôm giá buốt, lại còn vài ngày nữa là Tết...
Nhưng kỷ luật chiến trường, quân lệnh như sơn. Tôi nai nịt chặt chẽ xong, hất khẩu B14 lên vai là đi. Trời đêm đen như mực, hết đèo lại suối, người sau cứ nối bước người trước mà đi. Hầu hết lính nhập ngũ năm ấy là sinh viên các trường đại học, có cả những thầy giáo và khá đông nghiên cứu sinh ở nước ngoài mới về.
Đến lúc ấy, các "công tử" mới thấy giá trị của những buổi đèo sọt rèn quân. Nhưng dù sao chăng nữa, lính Hà Nội cũng khó dứt khỏi những mối tình sinh viên mà các bạn gái theo lên từ thủ đô. Và thế là cái kho chứa rơm của hợp tác xã bị biến thàng "chiêu đại sở" của lính và nước mắt chia ly nhiều bao nhiêu thì càng làm tăng sự đột ngột của lệnh hành quân đêm ấy. Nhưng đến tảng sáng thì chúng tôi ngã ngửa người ra khi nhìn thấy lờ mờ dãy núi đá vôi Ninh Bình, tức là chúng tôi đã lộn ngược ra Bắc và đã đi được 40km. Và một tin vui còn bất ngờ hơn: chuẩn bị nghe đại tướng Võ Nguyên Giáp úy lại vào chúc Tết khi vào chiến trường...
Hôm ấy, Sư đoàn bộ đã dựng một khán đài cao, Đại tướng sẽ đứng trên đó nói chuyện, toàn sư đoàn hàng ngũ chỉnh tề trải dài xuống ven đồi. Nhiều đơn vị ở quá xa chỉ cử đại diện. Đại tướng lên nói chừng 15 phút, chúc Tết và động viên binh sĩ, tiếng "hu-ra" vang rền. Kết thúc, đơn vị chỗ nào lại về chỗ nấy. Chúng tôi còn nán lại để "xem mặt" ông. Ra đến ngoài cánh rừng bạch đàn, rất nhiều chiến sĩ đứng dọc hai bên đường, từ trên xe, ông nhảy xuống đi bộ giữa hai hàng quân, tay vẫy vẫy...
Đột nhiên ông dừng lại trước một người lính trẻ, rất trẻ. Chỉ khoảng 16, 17 tuổi và rất nhỏ bé, lùng thùng trong bộ quân phục số 2. Đối diện với người binh nhì, ông ôn tồn hỏi: “Đồng chí đi bộ đội bao lâu rồi?”. “Báo cáo Đại tướng, gần một tháng ạ”. “Đã học chào chưa?”. Người lính trẻ lúng túng, vì cảm động hơn vì câu hỏi. Và bất ngờ, Đại tướng dập gót, đứng nghiêm, giơ tay chào. Người lính cũng đứng thẳng người, chào đáp lại, hai mắt anh rực sáng.
Suốt đời, tôi không bao giờ quên ánh mắt của người lính hôm ấy. Trong ánh mắt ấy nửa như có sự hàm ơn, nửa như mang một lời hứa. Trong giây lát, không gian như nén lại rồi vỡ tung ra trong tiếng “hu-ra” vang dội.
Lần đầu tiên, tôi chứng kiến một cảnh tượng cảm động và lạ lùng: một đại tướng đứng nghiêm chào một binh nhì trước giờ xuất trận. Giờ đây, đã hơn 30 năm, lũ trẻ sinh thành đêm hôm ấy phần lớn đã có gia đình, Còn chúng tôi không quên được cuộc hội ngộ. Trong tình thế ầm ầm vào trận, mạng sống quả rất mong manh. Nhưng với đạo quân "Phụ tử chi binh" ấy, người ta cũng có thể chết vì một tấm lòng, một nghĩa cử lắm chứ!
Sự thực trong đoàn quân năm ấy rất nhiều người không trở về, họ vĩnh viễn nằm lại thành cổ Quảng Trị, đáy dòng sông Thạch Hãn, một cánh rừng nào đó B2, B3, chiến trường C... Nhưng tôi biết sức mạnh của những người lính chúng tôi được tăng lên kể từ buổi gặp chủ tướng của ngày ấy.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn bắt tay khen ngợi đội phi công Quyết Thắng, năm 1975. Ảnh tư liệu.
Lần thứ hai: Vào cuối năm 1994. Cuộc triển lãm hội hoạ mang tên “Cái nhìn từ hai phía” hội tụ 40 hoạ sĩ cựu chiến binh hai nước Việt Nam và Mỹ sau khi chu du vòng quanh nước Mỹ gặt hái nhiều tiếng vang thì lễ bế mạc được tổ chức ở bảo tàng Mỹ thuật, Hà Nội.
Vài hôm sau buổi lễ, tôi được ban tổ chức mời đến để cùng tiếp một khách mời đặc biệt: Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Hơn nửa giờ ông xem kỹ từng bức tranh một, thỉnh thoảng trao đổi đôi lời với chúng tôi.
Ông dừng lâu trước bức “Chân dung Bác Hồ” gắn bằng những con tem thư của hoạ sĩ cựu chiến binh David Thomas và bức “Cánh rừng Đi-ô-xin” của tôi.
Tôi biết, ngày nay ở Hà Nội, mỗi tuần một triển lãm, việc ông đến thăm triển lãm hội hoạ của những người lính cũ hai bên của cuộc chiến mà “hơi bom còn nóng hổi” là không phải điều đơn giản. Ông thích hội hoạ, am hiểu văn, sử, khoa học và còn biết chơi piano cừ khôi. Thế giới ít có người văn võ song toàn như thế.

Bức họa Đại tướng Võ Nguyên Giáp của tác giả Lê Trí Dũng. Ảnh tư liệu.
Lần thứ ba: Thời gian như gió qua cửa sổ. Nhiều lúc phóng xe trên đường nhưng tôi cứ nghĩ: "Ông tướng đã 93 tuổi rồi, đại thượng thọ rồi, không biết có tập thiền nữa không?
Thế rồi, một dịp bất ngờ, tôi được vẽ và chụp ảnh Đại tướng. Một chiều tháng 9, tôi đến nhà ông. Tôi chờ trong phòng khách. Rồi ông xuất hiện trong bộ lễ phục Đại tướng. Cử động chậm đi nhiều tuy rất minh mẫn.
Sau phút chào hỏi, ông bảo: "Làm việc ngay, vì lát nữa là đến giờ tập thái cực quyền rồi". Tôi bắt đầu vẽ, căn phòng lặng tờ, chỉ nghe tiếng sột soạt trên giấy. Đột nhiên, ông bảo: “Rất nhiều người nói tôi có hai đặc điểm: cái mắt và cái trán. Anh lưu ý nhé”.
Tôi biết ông đang mệt, dạo này thời tiết rất độc, mưa luôn. Vừa vẽ, tôi vừa quan sát ông. Đằng sau vầng trán kia, ông đang nghĩ gì? Hơn 30 năm trước hằng đêm ông thức trắng nghe tin chiến sự miền Nam từ điện thoại trực tuyến, nước mắt tướng quân có rơi không khi nghe tin đồng chí đồng bào của mình hy sinh dưới lê súng địch? Và ông phải chống chọi thế nào với sóng gió cuộc đời sau cuộc chiến?
Bất thần, ông nói: “Nhà đồng chí ở đâu?”. Tôi vừa trả lời ông vừa lựa thế đưa câu chuyện chuyển sang hướng “tâm tình”. Nhưng không, chỉ thế thôi! Ác liệt của chiến tranh và cuộc sống quân ngũ, sự cọ xát thường tình với hiểm nguy và yêu cầu quân sự đã tôi luyện vị Tổng chỉ huy thành bản lĩnh “buồn giận không lộ ra nét mặt”.
Rồi 30 phút qua đi. Bức hoạ bằng bút sắt đã xong, nhìn vẻ chưa hài lòng của tôi, ông đột nhiên hỏi người nhà: “Mai thứ mấy?”. “Thưa, thứ bảy ạ!”. “Vậy mai anh lại đến nhé!”. Lại bất ngờ, tôi hồi hộp: “Dạ, mấy giờ ạ?”. Vài tích tắc trôi mau: “Ba giờ”.
Đến bây giờ và mãi mãi về sau, tôi không thể quên được âm thanh, ngữ điệu và hồn khí của hai từ ấy. “Ba giờ” - Đại tướng nói nhanh, mạnh và sắc với ngữ điệu của người Lệ Thủy, Quảng Bình, không, không hẳn là vì thổ ngữ xứ đó, xứ quen trận mạc và đau thương, xứ có nhiều người kiệt xuất... mà trong âm điệu ấy, cái ý toát lên một lời hẹn thì ít mà nghe như một tiếng Lệnh thì đúng hơn. Đời ông, ông đã ra bao nhiêu cái lệnh như thế?

Hình ảnh bình dị của vị Tổng tư lệnh. Ảnh tư liệu.
Âm hưởng toát ra cái thần hồn, thần khí có tác dụng gieo vào lòng người thừa hành một lòng tin đặc biệt, chắc thắng, không do dự. Tôi tặng ông cuốn Theo vết xích xe tăng và giới thiệu đây là cuốn hồi ký của bộ đội xe tăng trong chiến tranh. Ông cầm cuốn sách, im lặng nhìn chiếc xe tăng vượt cổng trời nơi bìa. Chuyển cho người cần vụ cất đi và nói: “Tôi sẽ đọc”. Rồi thay đồ để đi tập thái cực quyền.
Ba giờ đúng ngày hôm sau, công việc tiếp tục. Ông tương tỉnh hơn. Thấy tôi giở máy ảnh, ông bảo: “Tôi rất ít khi được chụp một mình, bởi các đoàn thăm cứ tìm vai bíu cổ đòi chụp chung”.
Lúc tôi vẽ ông, ông ngồi rất im, để phá tan cái im lặng ấy, tôi hỏi ông: “Chiều nay Đại tướng có còn tập quyền nữa không?”. Ông bảo “Không”, rồi tiếp: “Tôi tập lại, trước tập rồi, bây giờ tập lại”. Đột nhiên ông bảo: “Sao Minh Đỉnh “đi” nhanh thế nhỉ? Đang khoẻ! Giới hoạ sĩ cũng đánh giá ông ấy đắp tượng Bác giống nhất đấy!”.
Tôi đưa cho ông xem bức hoạ vừa xong bằng phấn màu, ông ưng ý lắm: “Được đấy!” và gọi vợ: “Hà ơi, xem này!”. Tôi đưa cây bút dạ để ông ký vào góc dưới tranh, ông cầm bút hơi rung, dưới ngón trỏ một nốt ruồi đỏ lớn, ông hỏi: “Ký là Văn nhé?”. Tôi trả lời: “Không ạ, Đại tướng cứ ký Võ Nguyên Giáp là hơn!”.
Im lặng, rồi dường như lấy đà, ông phóng bút ký, đường bút đi như kiếm bay, rồi chấm một cái vào một chỗ không ngờ. Thế là bức hoạ hoàn thành. Ông bắt tay tôi và nói: “Cho tôi gửi lời chào toàn thể gia đình anh nhé!”. Ông là vị tướng quân của người Việt Nam, của dân tộc cấy lúa nước, là chỉ huy trưởng đoàn quân chân đất năm xưa.
Chị Hà tiễn tôi, tôi bảo: "Ông là tài sản của nhân dân Việt Nam". Chị Hà sửng sốt: "Thế à". Chị Hà ơi, sao chị lại sửng sốt? Ông ấy đã lấy lại lòng tin cho chúng tôi trong bao phút ngã lòng. Đời người ta, ai không có những phút ngã lòng? Khi cái ác đè lên cái thiện, khi sự thật bị vùi lấp... thì chúng tôi cần ông biết bao. Vì ông mãi mãi là vị Tổng Tư lệnh của những người lính chúng tôi.
Trích Ở với người - Ở với đời
Theo Tri Thức
Xem thêm…

Bác Hồ với ông vua H'mông ở Đồng Văn

1:04 PM |
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhận vua người H'mông làm em nuôi, tặng kiếm mà còn ứng cử ông làm đại biểu quốc hội.
Báo Tri thức xin trích đăng bài viết Bác Hồ với ông vua H'mông ở Đồng Văn của tác giả Nguyễn Tuấn Liêu - trong cuốn Hồ Chí Minh - Người mang lại ánh sáng do NXB Thời đại và tạp chí Xưa & Nay phát hành vào năm 2011.
Đồng Văn là một huyện biên giới vùng cao, có Lùng Cú là điểm cực Bắc, giáp Trung Quốc. Trước khi tách ra thành ba huyện, Đồng Văn bao gồm cả huyện Mèo Vạc và huyện Yên Minh ngày nay, rộng trên 1.000 km2, có trên 10 dân tộc cư trú với khoảng trên 5 vạn dân, trong đó đa số là người H'Mông.
Khi Cách mạng tháng Tám - 1945 nổ ra, Việt Nam Quốc dân đảng do Hoàng Quốc Chính cầm đầu từ Trung Quốc kéo về, chiếm đóng thị xã Hà Giang, gây cơ sở ở các huyện, kể cả Đồng Văn. Quân Quốc dân đảng Tàu, sang giải giáp vũ khí quân Nhật, khi đi qua Đồng Văn cũng cài một số sĩ quan, đặc vụ ở lại (Trưởng tham mưu Diếp Chính Tường... ) lôi kéo người cầm đầu các dân tộc phục vụ âm mưu lâu dài của chúng. Thực dân Pháp không bao lâu sau cũng ngầm cài gián điệp trở lại. Còn ta cũng gây dựng được cơ sở ở một vài nơi nhưng còn yếu và hẹp, chưa đủ lực lượng nổi lên cướp chính quyền ở tỉnh và huyện. Khi đó, Đồng Văn về cơ bản vẫn nằm dưới sự thống trị của người cầm đầu các dân tộc ở từng vùng. Tình hình vô cùng phức tạp.
Giữu lúc đó, được tin Chính phủ ta do cụ Hồ làm Chủ tịch đã được thành lập ở Hà Nội, để rõ thực hư, ông Vương Chí Thành, người đứng đầu dân tộc H'Mông quyết định về Hà Nội xin gặp cụ Hồ, bất chấp sự ngăn cản của Hoàng Quốc Chính khi đến thị xã Hà Giang. Đến Bắc Quang, các đồng chí Thanh Phong và Mai Trung Lâm hướng dẫn Vương về Tuyên Quang và từ đó về Hà Nội. Bác Hồ tiếp nhận và đã nhiều lần gặp ông, nhận ông làm em nuôi, đổi họ là Hồ Chí Thành, cử ông làm Chủ tịch châu Đồng Văn, giao cho ông trở về mời một số người cầm đầu đại diện các đan tộc khác, lập chính quyền châu.
Ông Vương Chí Thành thời trẻ (thứ 2 từ phải qua). Ảnh tư liệu.
Bác Hồ còn viết thư gửi nhân dân châu Đồng Văn và giao cho đồng chí Võ Khải Ca - lúc đó là cán bộ Tuyên Quang được giao đưa ông Vương về Hà Nội - đi Đồng Văn cùng ông Vương thực hiện những điều Bác đã giao. Dĩ nhiên, trong tình hình vô cùng phức tạp lúc đó, có nhiều khả năng ông Vương về Hà Nội không chỉ có gặp Hồ Chủ tịch. Đến cuộc Tổng tuyển cử 6/1/1946, Bác Hồ và Chính phủ đã giới thiệu ông Vương Chí Thành ứng cử làm đại biểu Quốc hội khóa I.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra và bên Trung Hoa nội chiến Quốc - Cộng lại bùng lên, bọn thực dân cáo già cũng rất thính. Chính vì thế, tháng 5/1947, Marius Moutet, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, đã dặn dò tướng Salan trước khi sang nhậm chức Tư lệnh quân đội Pháp ở miền Bắc: "Nước Trung Hoa đỏ đang nổi lên và bắt đầu tiến xuống phía Nam rồi, tôi yêu cầu ông phải làm mọi cách để không cho Việt Minh có thể tiếp xúc được với các đơn vị của Mao"...
Đặt chân tới Hà Nội, tướng Salan lập tức quan tâm ngay đến vấn đề đó. Chiến dịch đầu tiên tổ chức ở Bắc kỳ từ tháng 10/1947, ngoài những mục tiêu khác, còn nhằm khóa chặt biên giới Trung Hoa.
Bác Hồ còn nhìn xa và nhạy bén hơn, thấy được vị trí quan trọng của huyện biên giới Đồng Văn, nên vào cuối năm 1946, Hồ Chủ tịch đã cử đồng chí Bùi Công Trừng lên Hà Giang, thay mặt cho Chính phủ trao tặng ông Vương một thanh gươm với dòng chữ: "Tận trung báo Quốc, tất thụ nô lệ" (hết lòng trung với nước, quyết không chịu làm nô lệ). Thanh gươm của Bác ấp ủ lời ủy thác, nhắc nhở, động viên, chứa đựng ý nghĩa sâu xa. Chắc chắn nó có tác động đến tình cảm và hành động của ông Vương. Chẳng thế mà ông thường kể lại sự kiện này cho cán bộ ta nghe nhiều năm về sau, với niềm vinh dự tự hào.
Sau Thu Đông 1947, quân Pháp đã chiếm được dọc biên giới phía Bắc nước ta suốt từ Lai Châu, Lào Cai, Hoàng Xu Phì (Hà Giang), Cao Bằng, Lạng Sơn đến Móng Cái, nơi duy nhất chưa chiếm được là Vị Xuyên, Đồng Văn của Hà Giang. Khi nguy cơ quân giải phóng Trung Hoa vượt sông Dương Tử, tiến sát biên giới nước ta không còn là chuyện xa với, Pháp xúc tiến âm mưu bít kín nốt biên giới nước ta ở đoạn còn lại của Hà Giang. Một mặt, chúng dùng lực lượng quân sự từ Hoàng Su Phì, một đường đánh ra Bắc Quang, một đường vượt Tây Côn Lĩnh đánh Thanh Thủy ra thị xã Hà Giang.
Mặt khác, chúng âm mưu lôi kéo hứa hẹn nếu Vương Chí Thành hợp tác với chúng thì chúng để cho ông được cai quản từ Làng Đán trở lên Đồng Văn, Pháp chỉ chiểm đóng từ Pắc-Xum trở xuống thi xã Hà Giang. Cùng với việc đánh trả địch về quân sự, ta xúc tiến phá âm mưu chia rẽ về chính trị của địch. Không phải ngẫu nhiên vào khoảng hè thu 1948, Bác Hồ cử đồng chí Trần Đăng Ninh làm đặc phái viên của Chủ tịch nước gặp Chủ ông Chủ tịch huyện Đồng Văn Vương Chí Thành, giảng giải cho ông rõ thời cuộc để không sa vào mưu địch.
Chuyến đi có trục trặc đáng tiếc nhưng kết cục âm mưu bít kín biên giới ta ở Hà Giang của Pháp đã thất bại. Điều đó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho ta đẩy mạnh cuộc khác chiến, mở đầu bằng chiến thắng Biên giới tháng 10/1950. Mấy năm sau, do thua ở chiến trường chính, địch âm mưu thả biệt kích gây phỉ ở hậu phương như vụ thả Dương Mí Sàng xuống Mèo Vạc... để buộc ta phải phân tán lực lượng, nhưng đều thất bại.
Do lợi ích giai cấp và dòng họ và là đối tượng được nhiều thế lực phản động lôi kéo, đồng thời lợi dụng trình độ dân trí thấp, dễ bề mê muội và địa thế biên cương hiểm trở, nên trên bước đường đi theo cụ Hồ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp của ông Vương  Chí Thành không phải là suôn sẻ.
Tư tưởng hùng cứ một phương, cùng với chính sách dao động của ông cũng dẫn đến nhiều mặt mặt tiêu cực và khó khăn trong việc thi hành những chính sách của Chính phủ. Nhưng đây không phải là nội dung chính của bài viết này. Có điều rõ ràng là suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, trong một tình hình vô cùng phức tạp như đã nêu trên mà ta giữ được Vương Chí Thành đi theo cụ Hồ, giữ được an ninh, không để xảy ra bạo loạn, giặc Pháp không đặt chân tới được Đồng Văn, tránh được tổn thất về xương máu của bộ đội và nhân dân các dân tộc, giữ được đường biên giới tiếp xúc với nước bạn, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh cuộc kháng chiến đồng thời từng bước xóa dần các tàn tích phong kiến cát cứ ở Đồng Văn là một thắng lợi lớn, vượt ra cả ngoài địa giới Hà Giang.
Có được thắng lợi đó trước hết là nhờ chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, sáng suốt, nhờ tầm nhìn xa về chiến lược kết hợp với tính kiên trì và khoan dung của Hồ Chủ tịch.
Bác là người đầu tiên đặt nền móng chính sách đoàn kết dân tộc cho Đồng Văn. Đúng vậy, khi giao cho đồng chí Võ Khải Ca cùng với ông Vương về Đồng văn lập chính quyền cuối 1945, Bác dặn đi dặn lại đồng chí Ca: "Phải nắm người cầm đầu, qua đó đoàn kết nhân dân các đan tộc, phải hết sức thận trọng, không được áp đặt, chú ý các dân tộc ít người, quan tâm đời sống nhân dân, giúp những thứ dân thiếu như nông cụ và muối..." .
Lời Bác dặn giản dị mà sâu sắc. Cùng với việc cử ông Vương Chí Thành làm Chủ tịch châu, nhận làm em nuôi, tặng kiếm, giới thiệu ông ứng cử làm đại biếu Quốc hội khóa I, thậm chí ở cả Quốc hội khóa II, sau khi vừa xảy ra vụ bạo loạn ở Đồng Văn cuối năm 1959. Tất cả những cái đó thể hiện chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi của Người, nó còn thể hiện nhãn quan chính trị nhìn xa và nhạy bén kỳ lạ, kết hợp một cách tự nhiên với tính khoan dung đầy tính thu phục lòng người của Bác. Lời dạy của Bác và những bài học trên đây đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Trích cuốn Hồ Chí Minh - Người mang lại ánh sáng
Theo Tri Thức
Xem thêm…