Home » benh-viem-gan
3 điều phụ nữ mắc viêm gan C cần lưu ý khi mang thai
1:55 PM |Phụ nữ mắc viêm gan siêu vi C vẫn có thể mang thai bình thường. Mức độ lây nhiễm từ mẹ sang con phụ thuộc vào lượng siêu vi trong máu mẹ nhiều hay không. Sau khi chào đời, bé cần được làm xét nghiệm viêm gan C, nếu bị nhiễm sẽ được điều trị để đảm bảo bé có sức khỏe tốt về sau.
Mẹ mắc viêm gan C vẫn có thể mang thai
Khi người mẹ có siêu vi C trong người mà muốn có thai, nếu đủ điều kiện tài chính thì nên điều trị ngay. Nếu hiệu quả, sau khi ngưng thuốc 6 tháng, mẹ có thể có thai và không lo lây nhiễm sang con. Còn nếu chưa có điều kiện về kinh tế, thì chị em vẫn có thể có thai nhưng cần theo dõi y tế chặt chẽ để theo dõi nguy cơ lây bệnh sang con.
Nếu chồng bị viêm gan C thì nên điều trị để giảm lượng virus trong cơ thể, khả năng lây bệnh sang vợ sẽ thấp hoặc không còn khả năng lây. Vợ không mắc bệnh vẫn có thể có thai bình thường và con không có nguy cơ bị lây nhiễm.
Tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ bị viêm gan C sang con là bao nhiêu?
Lây nhiễm siêu vi C từ mẹ sang con có tỷ lệ thấp hơn so với siêu vi B. Nếu người mẹ bị viêm gan C mạn tính với nồng độ HCV trong máu nhỏ hơn 106/ml thì tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con khoảng từ 0% đến 18%. Nếu nồng độ HCV của mẹ lớn hơn 2 triệu/ml và mẹ mắc bệnh vào 3 tháng cuối thai kỳ hay lúc sinh thì khả năng lây cho con cao hơn nhiều, có thể lên tới 36%.
Làm thế nào để giảm nguy cơ lây nhiễm viêm gan C từ mẹ sang con?
Những thủ thuật như chọc ối, thăm dò máu thai nhi nên tránh vì làm lây nhiễm HCV. Sinh khó, chẳng hạn như vỡ ối kéo dài cũng làm tăng nguy cơ lây HCV. Cho nên để giảm nguy cơ lây nhiễm người mẹ mắc viêm gan C tốt nhất là sinh mổ thay vì sinh thường. Việc lau sạch máu cho trẻ sau khi sinh cũng giúp giảm bớt nguy cơ lây nhiễm bệnh. Sau khi chào đời, bé sẽ được làm xét nghiệm viêm gan C, nếu bé mắc bệnh sẽ được điều trị để bảo sức khỏe tốt về sau.
Mẹ bị nhiễm viêm gan C vẫn có thể cho con bú bình thường vì siêu vi C trong sữa mẹ không có nguy cơ lây nhiễm cao. Nếu đầu vú của bạn có vết nứt, lở loét thì nên cho bé bú bình để tránh nguy cơ lây nhiễm.
Xem thêm…
Mẹ mắc viêm gan C vẫn có thể mang thai
Khi người mẹ có siêu vi C trong người mà muốn có thai, nếu đủ điều kiện tài chính thì nên điều trị ngay. Nếu hiệu quả, sau khi ngưng thuốc 6 tháng, mẹ có thể có thai và không lo lây nhiễm sang con. Còn nếu chưa có điều kiện về kinh tế, thì chị em vẫn có thể có thai nhưng cần theo dõi y tế chặt chẽ để theo dõi nguy cơ lây bệnh sang con.
Phụ nữ mắc viêm gan C vẫn có thể mang thai bình thường
Tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ bị viêm gan C sang con là bao nhiêu?
Lây nhiễm siêu vi C từ mẹ sang con có tỷ lệ thấp hơn so với siêu vi B. Nếu người mẹ bị viêm gan C mạn tính với nồng độ HCV trong máu nhỏ hơn 106/ml thì tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con khoảng từ 0% đến 18%. Nếu nồng độ HCV của mẹ lớn hơn 2 triệu/ml và mẹ mắc bệnh vào 3 tháng cuối thai kỳ hay lúc sinh thì khả năng lây cho con cao hơn nhiều, có thể lên tới 36%.
Lây nhiễm siêu vi C từ mẹ sang con có tỷ lệ thấp hơn siêu vi B
Những thủ thuật như chọc ối, thăm dò máu thai nhi nên tránh vì làm lây nhiễm HCV. Sinh khó, chẳng hạn như vỡ ối kéo dài cũng làm tăng nguy cơ lây HCV. Cho nên để giảm nguy cơ lây nhiễm người mẹ mắc viêm gan C tốt nhất là sinh mổ thay vì sinh thường. Việc lau sạch máu cho trẻ sau khi sinh cũng giúp giảm bớt nguy cơ lây nhiễm bệnh. Sau khi chào đời, bé sẽ được làm xét nghiệm viêm gan C, nếu bé mắc bệnh sẽ được điều trị để bảo sức khỏe tốt về sau.
Sau khi sinh, bé sẽ được xét nghiệm viêm gan C
Mẹ bị nhiễm viêm gan C vẫn có thể cho con bú bình thường vì siêu vi C trong sữa mẹ không có nguy cơ lây nhiễm cao. Nếu đầu vú của bạn có vết nứt, lở loét thì nên cho bé bú bình để tránh nguy cơ lây nhiễm.
Cây chó đẻ răng cưa chữa khỏi viêm gan B do Virut
12:17 AM |Bệnh viêm gan do virut, đang là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất hiện nay. Như ta đã biết có tới 6 loại virut viêm gan: A, B, C, D, E, G. Trong đó, loại B, C, được coi là loại lây lan nhiều nhất. Trong y học cổ truyền, có phương cách dùng cây chó đẻ răng cưa để trị bệnh viêm gan virut B rất hiệu quả.
Vai trò của gan trong hoạt động sống của cơ thể
Gan giữ nhiều chức năng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể. Trước hết giữ vai trò chuyển hóa và tồn trữ các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Quy trình Krebs, một chu trình chuyển hóa cơ bản, cũng được tiến hành chủ yếu ở gan. Thông qua đó, các thành phần dinh dưỡng: protid, lipid, glucid trong thức ăn được chuyển hóa để tạo ra năng lượng (ATP) phục vụ cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Gan tiết men, mật (acid mật) giúp tiêu hóa thức ăn, tích lũy glucogen, giúp cho việc điều hòa glucose huyết. Gan đóng vai trò giải độc cho cơ thể, thông qua cơ chế “giáng hóa”, các chất độc được tạo ra các sản phẩm ít độc và được thải ra ngoài theo đường mật và đường thận. Khi gan nhiễm virut viêm gan B (HBV), các tế bào gan sẽ bị tổn thương, làm tăng các chỉ số của enzym transaminase: ALT, AST trong máu, làm cho các hoạt động của gan bị trì trệ, kèm theo các triệu chứng mệt mỏi, kém ăn, buồn nôn. Khi phát bệnh, cơ thể bị sốt, đồng thời với các triệu chứng điển hình: vàng da, vàng mắt, nước tiểu đỏ, đau tức vùng hạ sườn phải... Khi đã có biến chứng chuyển thành xơ gan: bụng trướng to, đau bụng, tiêu chảy, nôn ra máu tươi, kèm theo tụt huyết áp, nặng hơn là hôn mê do suy gan nặng, suy thận cấp, lượng nước tiểu ít dần... Nhiều trường hợp có thể dẫn đến tử vong.
Chó đẻ răng cưa chữa viêm gan HBV
Chó đẻ răng cưa (Phyllantus urinaria L., tên đồng danh: P. amarus, P. cantoniensis Hornem., P. alatus Blume, họ thầu dầu Euphorbiaceae), cây mang tên này vì người ta thấy những con chó sau khi đẻ thường đi ăn cây này. Cây còn có tên là diệp hạ châu, vì có các hạt tròn nằm dưới lá. Ngoài ra còn có nhiều tên khác: trân châu thảo, diệp hạ châu đắng, diệp hòe thái, lão nha châu...
Chó đẻ răng cưa là cây thuộc thảo, sống hàng năm. Toàn cây có màu xanh. Thân nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành nhỏ, cao khoảng 30-50cm, có khi tới 80cm. Lá mọc so le, lưỡng hệ, trông như lá kép. Phiến lá thuôn, dài 5-15mm, rộng 2-5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép nguyên, không cuống hoặc cuống rất ngắn, mặt dưới màu xanh lơ. Hoa đơn tính, nhỏ, hoa đực, mọc thành chùm 2-4 hoa, dọc theo phần ngoại biên của các cành nhỏ, có 6 lá đài hình elip, hoặc trứng ngược. Có 3 nhị, chỉ nhị hợp nhất thành cột mảnh. Hoa cái cùng gốc, dọc theo phần giữa và phần dưới của cành nhỏ, có 6 lá đài hình trứng. Bầu nhụy hình trứng hay hình cầu, có 3 vòi nhụy. Hoa không cuống rất ngắn, mọc ở kẽ lá, hoặc đầu cành, màu đỏ nâu. Quả nang, hình cầu nhỏ, đường kính 2-2,5mm, màu đỏ hơi xám nhạt, xếp thành hàng dọc. Hạt hình ba mặt, hình trứng, màu nâu đỏ, hơi xám nhạt, có vân ngang. Mùa ra hoa từ tháng 4-6. Chó đẻ răng cưa mọc hoang ở nhiều nơi trên nước ta. Hiện đã được trồng với diện tích lớn để lấy nguyên liệu sản xuất thuốc trị viêm gan.
Chó đẻ răng cưa chứa thành phần hóa học gì?
Trong chó đẻ răng cưa có các thành phần flavonoid, alcaloid phyllanthin và các hợp chất hypophyllanthin, niranthin, phylteralin.
Các nhà khoa học đã chứng minh dịch chiết của Phyllantus, có tác dụng ức chế mạnh HBV, thông qua cơ chế ức chế enzym ADNp (ADNpolymerase) của HBV, làm giảm HbsAg và Anti- HBs.
Cây cam kiềm có hình dáng rất giống cây chó đẻ răng cưa.
Công dụng của chó đẻ răng cưa
Chó đẻ răng cưa được nhân dân ở nhiều nước dùng để trị mụn nhọt, đinh râu, chữa rắn cắn; có thể dùng đắp ngoài, uống trong; đặc biệt còn dùng trị sốt, lợi tiểu, đái tháo đường, u xơ tuyến tiền liệt, viêm âm đạo, khó tiêu, viêm đại tràng và chữa bệnh viêm gan vàng da. Trong những năm gần đây, trên thế giới và trong nước có nhiều công trình đã sử dụng cây thuốc này để trị viêm gan B. Với liều 900mg/ ngày, có tới 50% yếu tố lây truyền của HBV trong máu đã mất đi sau 30 ngày sử dụng vị thuốc này. Để trị viêm gan vàng da, có thể dùng chó đẻ răng cưa 40g, mã đề 20g, dành dành 12g, sắc uống. Trên thị trường Việt Nam cũng có nhiều chế phẩm trị viêm gan do HBV, trong thành phần có chó đẻ răng cưa. Ngoài ra, còn dùng chữa lở loét, mụn nhọt không liền miệng: Lá chó đẻ răng cưa, lá thồm lồm ăn tai, lượng bằng nhau, đinh hương 1 nụ, giã nát, đắp vào chỗ đau.
Người ta cho rằng chó đẻ răng cưa có tác dụng ức chế mạnh HBV- DNA (virut viêm gan B trên hệ mã di truyền) và làm cho virut bị đào thải, không bám vào được ADN của người. Những bệnh nhân viêm gan do HBV sau khi sử dụng thuốc có chó đẻ răng cưa, được phục hồi enzym transaminase từ 50-97%, bilirubin toàn phần trở về bình thường.
Trong khi sử dụng chó đẻ răng cưa để trị viêm gan HBV, cần chú ý phân biệt với một cây khác cùng họ, cũng mang tên chó đẻ răng cưa, còn có tên cam kiềm phyllantus niruri L., phân bố ở một số tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng (Thái Bình, Hải Dương...). Về hình dạng thực vật, cây này cũng giống như cây thân xanh nói trên, song cây chỉ cao khoảng 5-10cm; thân, cành có màu tía đỏ, quả có màu đỏ. Nhân dân thường dùng toàn cây, sắc đặc lấy nước ngậm chữa đau răng lợi, hôi miệng, thông tiểu, thông sữa, đôi khi cũng dùng trị viêm gan vàng da.
Xem thêm…
Cây chó đẻ răng cưa
Vai trò của gan trong hoạt động sống của cơ thể
Gan giữ nhiều chức năng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể. Trước hết giữ vai trò chuyển hóa và tồn trữ các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Quy trình Krebs, một chu trình chuyển hóa cơ bản, cũng được tiến hành chủ yếu ở gan. Thông qua đó, các thành phần dinh dưỡng: protid, lipid, glucid trong thức ăn được chuyển hóa để tạo ra năng lượng (ATP) phục vụ cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Gan tiết men, mật (acid mật) giúp tiêu hóa thức ăn, tích lũy glucogen, giúp cho việc điều hòa glucose huyết. Gan đóng vai trò giải độc cho cơ thể, thông qua cơ chế “giáng hóa”, các chất độc được tạo ra các sản phẩm ít độc và được thải ra ngoài theo đường mật và đường thận. Khi gan nhiễm virut viêm gan B (HBV), các tế bào gan sẽ bị tổn thương, làm tăng các chỉ số của enzym transaminase: ALT, AST trong máu, làm cho các hoạt động của gan bị trì trệ, kèm theo các triệu chứng mệt mỏi, kém ăn, buồn nôn. Khi phát bệnh, cơ thể bị sốt, đồng thời với các triệu chứng điển hình: vàng da, vàng mắt, nước tiểu đỏ, đau tức vùng hạ sườn phải... Khi đã có biến chứng chuyển thành xơ gan: bụng trướng to, đau bụng, tiêu chảy, nôn ra máu tươi, kèm theo tụt huyết áp, nặng hơn là hôn mê do suy gan nặng, suy thận cấp, lượng nước tiểu ít dần... Nhiều trường hợp có thể dẫn đến tử vong.
Cây cam kiềm có hình dáng rất giống cây chó đẻ răng cưa.
Chó đẻ răng cưa (Phyllantus urinaria L., tên đồng danh: P. amarus, P. cantoniensis Hornem., P. alatus Blume, họ thầu dầu Euphorbiaceae), cây mang tên này vì người ta thấy những con chó sau khi đẻ thường đi ăn cây này. Cây còn có tên là diệp hạ châu, vì có các hạt tròn nằm dưới lá. Ngoài ra còn có nhiều tên khác: trân châu thảo, diệp hạ châu đắng, diệp hòe thái, lão nha châu...
Chó đẻ răng cưa là cây thuộc thảo, sống hàng năm. Toàn cây có màu xanh. Thân nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành nhỏ, cao khoảng 30-50cm, có khi tới 80cm. Lá mọc so le, lưỡng hệ, trông như lá kép. Phiến lá thuôn, dài 5-15mm, rộng 2-5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép nguyên, không cuống hoặc cuống rất ngắn, mặt dưới màu xanh lơ. Hoa đơn tính, nhỏ, hoa đực, mọc thành chùm 2-4 hoa, dọc theo phần ngoại biên của các cành nhỏ, có 6 lá đài hình elip, hoặc trứng ngược. Có 3 nhị, chỉ nhị hợp nhất thành cột mảnh. Hoa cái cùng gốc, dọc theo phần giữa và phần dưới của cành nhỏ, có 6 lá đài hình trứng. Bầu nhụy hình trứng hay hình cầu, có 3 vòi nhụy. Hoa không cuống rất ngắn, mọc ở kẽ lá, hoặc đầu cành, màu đỏ nâu. Quả nang, hình cầu nhỏ, đường kính 2-2,5mm, màu đỏ hơi xám nhạt, xếp thành hàng dọc. Hạt hình ba mặt, hình trứng, màu nâu đỏ, hơi xám nhạt, có vân ngang. Mùa ra hoa từ tháng 4-6. Chó đẻ răng cưa mọc hoang ở nhiều nơi trên nước ta. Hiện đã được trồng với diện tích lớn để lấy nguyên liệu sản xuất thuốc trị viêm gan.
Chó đẻ răng cưa chứa thành phần hóa học gì?
Trong chó đẻ răng cưa có các thành phần flavonoid, alcaloid phyllanthin và các hợp chất hypophyllanthin, niranthin, phylteralin.
Các nhà khoa học đã chứng minh dịch chiết của Phyllantus, có tác dụng ức chế mạnh HBV, thông qua cơ chế ức chế enzym ADNp (ADNpolymerase) của HBV, làm giảm HbsAg và Anti- HBs.
Cây cam kiềm có hình dáng rất giống cây chó đẻ răng cưa.
Công dụng của chó đẻ răng cưa
Chó đẻ răng cưa được nhân dân ở nhiều nước dùng để trị mụn nhọt, đinh râu, chữa rắn cắn; có thể dùng đắp ngoài, uống trong; đặc biệt còn dùng trị sốt, lợi tiểu, đái tháo đường, u xơ tuyến tiền liệt, viêm âm đạo, khó tiêu, viêm đại tràng và chữa bệnh viêm gan vàng da. Trong những năm gần đây, trên thế giới và trong nước có nhiều công trình đã sử dụng cây thuốc này để trị viêm gan B. Với liều 900mg/ ngày, có tới 50% yếu tố lây truyền của HBV trong máu đã mất đi sau 30 ngày sử dụng vị thuốc này. Để trị viêm gan vàng da, có thể dùng chó đẻ răng cưa 40g, mã đề 20g, dành dành 12g, sắc uống. Trên thị trường Việt Nam cũng có nhiều chế phẩm trị viêm gan do HBV, trong thành phần có chó đẻ răng cưa. Ngoài ra, còn dùng chữa lở loét, mụn nhọt không liền miệng: Lá chó đẻ răng cưa, lá thồm lồm ăn tai, lượng bằng nhau, đinh hương 1 nụ, giã nát, đắp vào chỗ đau.
Người ta cho rằng chó đẻ răng cưa có tác dụng ức chế mạnh HBV- DNA (virut viêm gan B trên hệ mã di truyền) và làm cho virut bị đào thải, không bám vào được ADN của người. Những bệnh nhân viêm gan do HBV sau khi sử dụng thuốc có chó đẻ răng cưa, được phục hồi enzym transaminase từ 50-97%, bilirubin toàn phần trở về bình thường.
Trong khi sử dụng chó đẻ răng cưa để trị viêm gan HBV, cần chú ý phân biệt với một cây khác cùng họ, cũng mang tên chó đẻ răng cưa, còn có tên cam kiềm phyllantus niruri L., phân bố ở một số tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng (Thái Bình, Hải Dương...). Về hình dạng thực vật, cây này cũng giống như cây thân xanh nói trên, song cây chỉ cao khoảng 5-10cm; thân, cành có màu tía đỏ, quả có màu đỏ. Nhân dân thường dùng toàn cây, sắc đặc lấy nước ngậm chữa đau răng lợi, hôi miệng, thông tiểu, thông sữa, đôi khi cũng dùng trị viêm gan vàng da.
Các loại thuốc chữa viêm gan mạn tính do virus C
12:12 AM |Nhiễm virut viêm gan C cấp thường có nguy cơ 50 - 80% trở thành viêm gan C mạn. Có đến 50 - 70% tất cả các trường hợp ung thư gan là có sự liên quan tới virut viêm gan C. Những người viêm gan C mạn không điều trị hiếm khi thanh thải virut tự nhiên trừ khi tình trạng miễn dịch bị thay đổi.
Biểu hiện của bệnh
Trên 50% bệnh nhân viêm gan do virus C sẽ chuyển thành mạn tính, ngoài ra nếu nguyên nhân gây viêm gan C mạn là do truyền máu thì sau 10 năm có tới 20% số bệnh nhân chuyển thành xơ gan, ngay cả với những thể nhẹ và vừa không có triệu chứng và chỉ tăng nhẹ men transaminase. Diễn tiến của viêm gan mạn C thường chậm và âm thầm. Mức độ tiến triển phụ thuộc vào nồng độ HCV- ARN và thời gian nhiễm bệnh.
Biểu hiện lâm sàng của viêm gan mạn C cũng tương tự như viêm gan mạn do virus B, thường gặp nhất là mệt mỏi, vàng da ít gặp. Các biểu hiện ngoài gan cũng ít gặp hơn. Triệu chứng khởi đầu có thể biểu hiện những đợt rầm rộ như trong viêm gan cấp (l/3 trường hợp), phần còn lại thường âm thầm làm phần lớn bệnh nhân không nhận biết được, thường chỉ biểu hiện bởi triệu chứng cơ năng chung là mỏi mệt, cảm giác nặng tức vùng hạ sườn phải, nhiều lúc có đau cơ, đau khớp hoặc nhiều lúc chỉ có cảm giác nhức mỏi chung chung. Trong những đợt tiến triển, các triệu chứng thường phong phú và rầm rộ hơn với sốt, vàng da, vàng mắt, nước tiểu vàng hoặc sẫm màu, đau cơ, đau khớp và nhất là đau tức vùng gan và ngứa. Khám thấy gan to vừa, căng chắc ấn đau tức, vàng da vàng mắt, hồng ban và giãn mạch hình sao.
Giai đoạn sau khi đã có biến chứng xơ gan, các biểu hiện viêm thường giảm dần, thay vào đó là các triệu chứng của xơ gan cổ trướng và suy gan là nổi bật; hoặc các triệu chứng của ung thư gan với gan rất lớn, gan cứng và có nhiều khối u lổn nhổn.
Điều trị như thế nào?
Ở các bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C mạn, mục tiêu điều trị là diệt trừ virus, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan.
Dùng Corticoid điều trị viêm gan C không có kết quả.
Interferon alpha là thuốc điều trị hiệu quả, nó làm biến mất sự tăng men transaminase sau 1-2 tháng điều trị. Nhiều nghiên cứu cho thấy, interferon làm men transaminase trở lại bình thường trong 50% trường hợp, cũng như làm giảm hoạt tính mô học. Hiệu quả lâu dài của việc điều trị interferon vẫn chưa được biết hết. Vì sau khi ngừng điều trị 3 - 6 tháng thì gần 1 nửa có hiện tượng tái phát.
Hiện nay thường dùng liệu pháp peg - interferon kết hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ.
Peg - Interferon là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol, còn gọi là pegylate hoá, làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng một tuần một lần. Điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn, lớn hơn 50%. Trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin có thể được điều trị bằng peg - interferon. Các tác dụng phụ: phần lớn các tác dụng ngoại ý là ở mức độ nhẹ và trung bình, không cần hạn chế điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nơi tiêm, mệt, ớn lạnh, sốt, đau khớp, triệu chứng giống cúm, trầm cảm.., ngoài ra có thể gặp giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, phát ban, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón, rối loạn tâm thần...
Ribavirin: Được phát hiện vào năm 1972, là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virus RNA và DNA gồm cả các Flaviviridae như virut viêm gan C. Ribavirin có vai trò quan trọng trong phác đồ phối hợp với peg - interferon trong suốt quá trình điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là gây tan máu, ngoài ra còn gây quái thai, do đó không được dùng cho phụ nữ mang thai.
Tuy nhiên, không được dùng các thuốc trên điều trị cho bệnh nhân viêm gan mạn do virus C trong các trường hợp sau: bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh tự miễn, rối loạn nhịp tim, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, suy thận, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi. Cần thận trọng khi sử dụng cho các bệnh nhân thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật.
Tóm lại, sự phát tán của HCV ngày càng có khuynh hướng tăng lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Quá trình điều trị và hiệu quả điều trị còn gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân khác nhau. Điều quan trọng là cần tránh lây nhiễm virus viêm gan C bằng các biện pháp vệ sinh, loại bỏ kỹ những nguồn cho máu và các chế phẩm từ máu bị nhiễm virus viêm gan C; tránh dùng chung những dụng cụ có thể dính máu của nhau như kim tiêm, kim châm cứu, dao cạo, bàn chải đánh răng... Phòng chống các tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý, mại dâm, thực hiện sống chung thuỷ một vợ một chồng, sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục với người nhiễm virus viêm gan C.
Xem thêm…
Biểu hiện của bệnh
Trên 50% bệnh nhân viêm gan do virus C sẽ chuyển thành mạn tính, ngoài ra nếu nguyên nhân gây viêm gan C mạn là do truyền máu thì sau 10 năm có tới 20% số bệnh nhân chuyển thành xơ gan, ngay cả với những thể nhẹ và vừa không có triệu chứng và chỉ tăng nhẹ men transaminase. Diễn tiến của viêm gan mạn C thường chậm và âm thầm. Mức độ tiến triển phụ thuộc vào nồng độ HCV- ARN và thời gian nhiễm bệnh.
Biểu hiện lâm sàng của viêm gan mạn C cũng tương tự như viêm gan mạn do virus B, thường gặp nhất là mệt mỏi, vàng da ít gặp. Các biểu hiện ngoài gan cũng ít gặp hơn. Triệu chứng khởi đầu có thể biểu hiện những đợt rầm rộ như trong viêm gan cấp (l/3 trường hợp), phần còn lại thường âm thầm làm phần lớn bệnh nhân không nhận biết được, thường chỉ biểu hiện bởi triệu chứng cơ năng chung là mỏi mệt, cảm giác nặng tức vùng hạ sườn phải, nhiều lúc có đau cơ, đau khớp hoặc nhiều lúc chỉ có cảm giác nhức mỏi chung chung. Trong những đợt tiến triển, các triệu chứng thường phong phú và rầm rộ hơn với sốt, vàng da, vàng mắt, nước tiểu vàng hoặc sẫm màu, đau cơ, đau khớp và nhất là đau tức vùng gan và ngứa. Khám thấy gan to vừa, căng chắc ấn đau tức, vàng da vàng mắt, hồng ban và giãn mạch hình sao.
Giai đoạn sau khi đã có biến chứng xơ gan, các biểu hiện viêm thường giảm dần, thay vào đó là các triệu chứng của xơ gan cổ trướng và suy gan là nổi bật; hoặc các triệu chứng của ung thư gan với gan rất lớn, gan cứng và có nhiều khối u lổn nhổn.
Điều trị như thế nào?
Ở các bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C mạn, mục tiêu điều trị là diệt trừ virus, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan.
Dùng Corticoid điều trị viêm gan C không có kết quả.
Interferon alpha là thuốc điều trị hiệu quả, nó làm biến mất sự tăng men transaminase sau 1-2 tháng điều trị. Nhiều nghiên cứu cho thấy, interferon làm men transaminase trở lại bình thường trong 50% trường hợp, cũng như làm giảm hoạt tính mô học. Hiệu quả lâu dài của việc điều trị interferon vẫn chưa được biết hết. Vì sau khi ngừng điều trị 3 - 6 tháng thì gần 1 nửa có hiện tượng tái phát.
Hiện nay thường dùng liệu pháp peg - interferon kết hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ.
Peg - Interferon là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol, còn gọi là pegylate hoá, làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng một tuần một lần. Điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn, lớn hơn 50%. Trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin có thể được điều trị bằng peg - interferon. Các tác dụng phụ: phần lớn các tác dụng ngoại ý là ở mức độ nhẹ và trung bình, không cần hạn chế điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nơi tiêm, mệt, ớn lạnh, sốt, đau khớp, triệu chứng giống cúm, trầm cảm.., ngoài ra có thể gặp giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, phát ban, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón, rối loạn tâm thần...
Hình minh họa
Ribavirin: Được phát hiện vào năm 1972, là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virus RNA và DNA gồm cả các Flaviviridae như virut viêm gan C. Ribavirin có vai trò quan trọng trong phác đồ phối hợp với peg - interferon trong suốt quá trình điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là gây tan máu, ngoài ra còn gây quái thai, do đó không được dùng cho phụ nữ mang thai.
Tuy nhiên, không được dùng các thuốc trên điều trị cho bệnh nhân viêm gan mạn do virus C trong các trường hợp sau: bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh tự miễn, rối loạn nhịp tim, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, suy thận, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi. Cần thận trọng khi sử dụng cho các bệnh nhân thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật.
Tóm lại, sự phát tán của HCV ngày càng có khuynh hướng tăng lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Quá trình điều trị và hiệu quả điều trị còn gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân khác nhau. Điều quan trọng là cần tránh lây nhiễm virus viêm gan C bằng các biện pháp vệ sinh, loại bỏ kỹ những nguồn cho máu và các chế phẩm từ máu bị nhiễm virus viêm gan C; tránh dùng chung những dụng cụ có thể dính máu của nhau như kim tiêm, kim châm cứu, dao cạo, bàn chải đánh răng... Phòng chống các tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý, mại dâm, thực hiện sống chung thuỷ một vợ một chồng, sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục với người nhiễm virus viêm gan C.
Chữa bệnh viêm gan bằng Nhân trần
12:07 AM |Nhân trần tên khoa học Adenosma glutinosum (L.) Druce) thuộc họ hoa mõm chó (Scrophulariaceae), tên khác là chè nội, chè cát, hoắc hương núi, tuyến hương, mao xạ hương. Từ lâu, cả cây nhân trần được dùng làm thuốc với nhiều công dụng tốt. Dược liệu có vị đắng, the, mùi thơm, tính mát, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, thông tiểu tiện, làm ra mồ hôi.
Tuệ Tĩnh đã dùng nhân trần 30g phối hợp với dành dành 24 quả, thạch cao 4 - 6g nung, sắc uống để chữa hoàng đản (vàng da).
Chữa kém ăn, đầy bụng, khó tiêu: nhân trần 12g, kim tiền thảo 10g, cam thảo nam 10g. Các vị dùng cả cây trừ rễ, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày sau bữa ăn. Hoặc nhân trần 20g, ké hoa vàng 20g, thân và rễ mộc thông 10g, rễ móc diều 10g, sao vàng, sắc uống (phụ nữ có thai không được dùng).
Dùng cho phụ nữ sau sinh: nhân trần 8g sắc với mần tưới 20g, mạch môn 20g, ngải cứu 10g, rẻ quạt 4g, vỏ bưởi đầu khô 4g, tất cả cho vào sắc uống ngày 1 tháng.
Để điều hòa kinh nguyệt: Nhân trần 12g, ích mẫu 12g, lá đuôi lươn 10g, bạch đồng nữ 10g, rễ gắm 8g, nghệ đen 6g. Sắc hoặc nấu thành cao lỏng, uống trong ngày.
Trị hen suyễn: Nhân dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long dùng nhân trần phối hợp với hoa cúc vạn thọ, rau cần, củ tầm sét, thài lài tía, rễ bạch đồng nữ và tinh tre mỡ, mỗi thứ 10g, sắc uống.
Nhân trần khô.
Đặc biệt nhân trần có tác dụng chữa viêm gan do virut:
- Nhân trần 16g, lá vọng cách 16g, lá cối xay 12g, sắc uống.
- Nhân trần 16g, quả dành dành 12g, nghệ vàng 8g, sắc uống.
- Nhân trần 3g, vỏ núc nác 3g, nghệ vàng 3g, rau má 4g, sài hồ nam 2g, dành dành 2g, nhọ nồi 2g, hậu phác nam 2g. Nhân trần, vỏ núc nác, sài hồ, nhọ nồi, rau má nấu thành cao lỏng. Các dược liệu khác phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn. Trộn cao với bột làm thành viên. Ngày uống 10g chia làm 2 lần.
- Nhân trần và vỏ quả bưởi (bỏ phần cùi trắng) lượng bằng nhau, thái nhỏ, phơi khô, tán bột. Mỗi lần uống 6g, ngày 3 lần.
Xem thêm…
Tuệ Tĩnh đã dùng nhân trần 30g phối hợp với dành dành 24 quả, thạch cao 4 - 6g nung, sắc uống để chữa hoàng đản (vàng da).
Chữa kém ăn, đầy bụng, khó tiêu: nhân trần 12g, kim tiền thảo 10g, cam thảo nam 10g. Các vị dùng cả cây trừ rễ, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày sau bữa ăn. Hoặc nhân trần 20g, ké hoa vàng 20g, thân và rễ mộc thông 10g, rễ móc diều 10g, sao vàng, sắc uống (phụ nữ có thai không được dùng).
Dùng cho phụ nữ sau sinh: nhân trần 8g sắc với mần tưới 20g, mạch môn 20g, ngải cứu 10g, rẻ quạt 4g, vỏ bưởi đầu khô 4g, tất cả cho vào sắc uống ngày 1 tháng.
Để điều hòa kinh nguyệt: Nhân trần 12g, ích mẫu 12g, lá đuôi lươn 10g, bạch đồng nữ 10g, rễ gắm 8g, nghệ đen 6g. Sắc hoặc nấu thành cao lỏng, uống trong ngày.
Trị hen suyễn: Nhân dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long dùng nhân trần phối hợp với hoa cúc vạn thọ, rau cần, củ tầm sét, thài lài tía, rễ bạch đồng nữ và tinh tre mỡ, mỗi thứ 10g, sắc uống.
Nhân trần khô.
Đặc biệt nhân trần có tác dụng chữa viêm gan do virut:
- Nhân trần 16g, lá vọng cách 16g, lá cối xay 12g, sắc uống.
- Nhân trần 16g, quả dành dành 12g, nghệ vàng 8g, sắc uống.
- Nhân trần 3g, vỏ núc nác 3g, nghệ vàng 3g, rau má 4g, sài hồ nam 2g, dành dành 2g, nhọ nồi 2g, hậu phác nam 2g. Nhân trần, vỏ núc nác, sài hồ, nhọ nồi, rau má nấu thành cao lỏng. Các dược liệu khác phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn. Trộn cao với bột làm thành viên. Ngày uống 10g chia làm 2 lần.
- Nhân trần và vỏ quả bưởi (bỏ phần cùi trắng) lượng bằng nhau, thái nhỏ, phơi khô, tán bột. Mỗi lần uống 6g, ngày 3 lần.
Bệnh viên gan B là gì? cách phòng ngừa bệnh viêm gan B
12:00 AM |Viêm gan B là một căn bệnh tấn công lá gan. Căn bệnh này do siêu vi viêm gan B (HBV) gây ra. Khoảng 4.9% (1 trong 20) người Mỹ bị nhiễm HBV. Khi đa số những người lớn khỏe mạnh và trẻ em lớn tuổi nhiễm HBV, hệ miễn dịch của họ có thể chống lại căn bệnh này. Họ bị nhiễm bệnh viêm gan B “cấp tính” trong thời gian ngắn.
Nhiều người bị nhiễm bệnh thường không cảm thấy có triệu chứng gì và thậm chí không biết là mình nhiễm bệnh. Khoảng 90% trẻ nhỏ sinh ra đã có mẹ mắc bệnh đều nhiễm bệnh viêm gan B.
Khi bạn nhiễm HBV trong sáu tháng hoặc lâu hơn, bạn được coi là mắc bệnh lâu dài hoặc “mãn tính.” Theo Các Trung Tâm Kiểm Soát và Ngừa Bệnh Hoa Kỳ (CDC), khoảng 20 tới 30% trong số 1.25 triệu người Mỹ mắc bệnh viêm gan B mãn tính đã mắc bệnh trong thời thơ ấu.
Bệnh viêm gan B ảnh hưởng như thế nào?
Nhiều người mắc bệnh viêm gan B mãn tính thường không có triệu chứng gì và vẫn sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, một số người bị tổn thương gan do bệnh viêm gan B, đặc biệt là nếu họ đã mắc bệnh trong nhiều năm hoặc hàng chục năm. Khoảng một phần tư số người mắc bệnh viêm gan B có thể bị tổn thương gan nghiêm trọng. Trong đa số các trường hợp nghiêm trọng, bệnh viêm gan B có thể gây ung thư gan và suy gan.
Bệnh viêm gan B lây lan như thế nào?
Viêm gan B là căn bệnh viêm nhiễm do máu, điều đó có nghĩa là có siêu vi gây bệnh trong máu và chất dịch cơ thể của những người mắc bệnh. Nếu máu hoặc chất dịch cơ thể nhiễm HBV xâm nhập vào cơ thể của quy vị qua vết cắt hoặc chỗ hở khác, quy vị rất dễ có nguy cơ mắc bệnh.
HBV là loại siêu vi sống rất dai; thậm chí chúng còn có thể sống trong máu khô trong nhiều ngày! Chính vì vậy rất dễ nhiễm HBV nếu bạn sinh hoạt tình dục không có biện pháp bảo vệ với một người đã nhiễm bệnh hoặc nếu máu hoặc chất dịch cơ thể có siêu vi HBV đã tiếp xúc với một vết thương hở miệng hoặc da bị bong. Chính vì vậy những em bé sinh ra đã có mẹ mắc bệnh, dễ có nguy cơ mắc bệnh vì các em tiếp xúc với chất dịch cơ thể của người mẹ trong khi sinh.
HBV cũng lây lan dễ dàng qua dụng cụ y tế, ví dụ như kim tiêm và ống tiêm sử dụng lại hoặc không tiệt trùng đúng cách. HBV cũng có thể lây lan qua lượng máu nhỏ trong dụng cụ chích ma túy, cottons, và các dụng cụ khác được dùng để chích ma túy.
Các vật dụng khác tiếp xúc với máu và có thể làm lây lan siêu vi là dao cạo râu, bông tai hoặc bàn chải đánh răng, và các dụng cụ để xăm mình và xâu khuyên trên người.
Cách ngừa bệnh viêm gan B
Có một loại siêu vi rất an toàn và hiệu quả, có thể ngừa bệnh viêm gan B. Loại thuốc này được cho dùng theo đợt ba mũi chích ngừa. Các viên chức y tế khuyến cáo nên chích ngừa loại thuốc này cho trẻ sơ sinh khi ra đời, và tất cả những trẻ em và thanh thiếu niên đều nên đi chủng ngừa. Họ cũng khuyến cáo rằng những người lớn dễ có nguy cơ mắc bệnh viêm gan B do công việc hoặc tiếp xúc với người bạn tình hoặc người nhà đã mắc bệnh đều nên đi chủng ngừa.
Nhờ có chủng ngừa, tỷ lệ mắc bệnh viêm gan B mãn tính tại Hoa Kỳ đã giảm 78% trong 15 năm qua. Tuy nhiên, bệnh HBV vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số những người lớn không đi chủng ngừa, số người này chiếm 95% trong số khoảng 51,000 trường hợp mới mắc bệnh HBV trong năm 2005. Chính vì vậy việc người lớn đi chủng ngừa là rất quan trọng.
Ngoài chủng ngừa, chúng ta còn có thể ngừa HBV bằng cách áp dụng các biện pháp sau đây:
- Luôn sinh hoạt tình dục an toàn để tránh trao đổi các chất dịch cơ thể trong khi sinh hoạt tình dục qua đường miệng, âm đạo hoặc hậu môn.
- Không bao giờ dùng chung bàn chải, dao cạo râu, bông tai hoặc dụng cụ khác có thể đã tiếp xúc với máu hoặc chất dịch cơ thể.
- Băng ngay các vết cắt hoặc vết bầm tím để tránh tiếp xúc với máu.
- Không bao giờ chạm vào máu hoặc chất dịch của bất kỳ người nào mà không dùng dụng cụ bảo vệ giữa bạn và chất có thể đã nhiễm siêu vi gây bệnh.
- Bảo đảm rằng trẻ em sinh ra đã có mẹ mắc bệnh đều được chủng ngừa ngay, và được điều trị bằng globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG). Đây là các chất có các kháng thể của viêm gan B để giúp ngừa bệnh
Xem thêm…
Nhiều người bị nhiễm bệnh thường không cảm thấy có triệu chứng gì và thậm chí không biết là mình nhiễm bệnh. Khoảng 90% trẻ nhỏ sinh ra đã có mẹ mắc bệnh đều nhiễm bệnh viêm gan B.
Khi bạn nhiễm HBV trong sáu tháng hoặc lâu hơn, bạn được coi là mắc bệnh lâu dài hoặc “mãn tính.” Theo Các Trung Tâm Kiểm Soát và Ngừa Bệnh Hoa Kỳ (CDC), khoảng 20 tới 30% trong số 1.25 triệu người Mỹ mắc bệnh viêm gan B mãn tính đã mắc bệnh trong thời thơ ấu.
Bệnh viêm gan B ảnh hưởng như thế nào?
Nhiều người mắc bệnh viêm gan B mãn tính thường không có triệu chứng gì và vẫn sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, một số người bị tổn thương gan do bệnh viêm gan B, đặc biệt là nếu họ đã mắc bệnh trong nhiều năm hoặc hàng chục năm. Khoảng một phần tư số người mắc bệnh viêm gan B có thể bị tổn thương gan nghiêm trọng. Trong đa số các trường hợp nghiêm trọng, bệnh viêm gan B có thể gây ung thư gan và suy gan.
Bệnh viêm gan B lây lan như thế nào?
Viêm gan B là căn bệnh viêm nhiễm do máu, điều đó có nghĩa là có siêu vi gây bệnh trong máu và chất dịch cơ thể của những người mắc bệnh. Nếu máu hoặc chất dịch cơ thể nhiễm HBV xâm nhập vào cơ thể của quy vị qua vết cắt hoặc chỗ hở khác, quy vị rất dễ có nguy cơ mắc bệnh.
HBV là loại siêu vi sống rất dai; thậm chí chúng còn có thể sống trong máu khô trong nhiều ngày! Chính vì vậy rất dễ nhiễm HBV nếu bạn sinh hoạt tình dục không có biện pháp bảo vệ với một người đã nhiễm bệnh hoặc nếu máu hoặc chất dịch cơ thể có siêu vi HBV đã tiếp xúc với một vết thương hở miệng hoặc da bị bong. Chính vì vậy những em bé sinh ra đã có mẹ mắc bệnh, dễ có nguy cơ mắc bệnh vì các em tiếp xúc với chất dịch cơ thể của người mẹ trong khi sinh.
HBV cũng lây lan dễ dàng qua dụng cụ y tế, ví dụ như kim tiêm và ống tiêm sử dụng lại hoặc không tiệt trùng đúng cách. HBV cũng có thể lây lan qua lượng máu nhỏ trong dụng cụ chích ma túy, cottons, và các dụng cụ khác được dùng để chích ma túy.
Các vật dụng khác tiếp xúc với máu và có thể làm lây lan siêu vi là dao cạo râu, bông tai hoặc bàn chải đánh răng, và các dụng cụ để xăm mình và xâu khuyên trên người.
Cách ngừa bệnh viêm gan B
Có một loại siêu vi rất an toàn và hiệu quả, có thể ngừa bệnh viêm gan B. Loại thuốc này được cho dùng theo đợt ba mũi chích ngừa. Các viên chức y tế khuyến cáo nên chích ngừa loại thuốc này cho trẻ sơ sinh khi ra đời, và tất cả những trẻ em và thanh thiếu niên đều nên đi chủng ngừa. Họ cũng khuyến cáo rằng những người lớn dễ có nguy cơ mắc bệnh viêm gan B do công việc hoặc tiếp xúc với người bạn tình hoặc người nhà đã mắc bệnh đều nên đi chủng ngừa.
Nhờ có chủng ngừa, tỷ lệ mắc bệnh viêm gan B mãn tính tại Hoa Kỳ đã giảm 78% trong 15 năm qua. Tuy nhiên, bệnh HBV vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số những người lớn không đi chủng ngừa, số người này chiếm 95% trong số khoảng 51,000 trường hợp mới mắc bệnh HBV trong năm 2005. Chính vì vậy việc người lớn đi chủng ngừa là rất quan trọng.
Ngoài chủng ngừa, chúng ta còn có thể ngừa HBV bằng cách áp dụng các biện pháp sau đây:
- Luôn sinh hoạt tình dục an toàn để tránh trao đổi các chất dịch cơ thể trong khi sinh hoạt tình dục qua đường miệng, âm đạo hoặc hậu môn.
- Không bao giờ dùng chung bàn chải, dao cạo râu, bông tai hoặc dụng cụ khác có thể đã tiếp xúc với máu hoặc chất dịch cơ thể.
- Băng ngay các vết cắt hoặc vết bầm tím để tránh tiếp xúc với máu.
- Không bao giờ chạm vào máu hoặc chất dịch của bất kỳ người nào mà không dùng dụng cụ bảo vệ giữa bạn và chất có thể đã nhiễm siêu vi gây bệnh.
- Bảo đảm rằng trẻ em sinh ra đã có mẹ mắc bệnh đều được chủng ngừa ngay, và được điều trị bằng globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG). Đây là các chất có các kháng thể của viêm gan B để giúp ngừa bệnh
Chữa bệnh viêm gan B hiệu quả bằng cây chó đẻ
11:55 PM |Viêm gan là một trong những căn bệnh được đông y đề cập đến từ hàng nghìn năm nay trong phạm vi các chứng bệnh như hoàng đản, cấp hoàng, hiếp thống, tích tụ... Các bài thuốc mang tính kinh điển và kho tàng kinh nghiệm dân gian điều trị viêm gan với cây cỏ quen thuộc quanh nhà, quanh vườn cũng hết sức phong phú.
Viêm gan là một trong những căn bệnh được đông y đề cập đến từ hàng nghìn năm nay trong phạm vi các chứng bệnh như hoàng đản, cấp hoàng, hiếp thống, tích tụ... Các bài thuốc mang tính kinh điển và kho tàng kinh nghiệm dân gian điều trị viêm gan với cây cỏ quen thuộc quanh nhà, quanh vườn cũng hết sức phong phú. Bên cạnh các vị thuốc nổi tiếng như nhân trần, chi tử... đã từng được biết đến và nghiên cứu khá sâu, còn rất nhiều những cây cỏ quen thuộc với đời sống hàng ngày được dùng để phòng chống viêm gan như chó đẻ răng cưa (diệp hạ châu), bồ công anh, cỏ tím (tử hoa địa đinh), cỏ lưỡi rắn (bạch hoa xà thiệt thảo), cỏ roi ngựa (mã tiên thảo), thài lài tía, rễ cỏ tranh, sắn dây, phèn đen, bản lam căn, cối xay, kim tiền thảo, rễ bươm bướm, rau má, rễ lúa nếp, rễ cây bông, rễ và quả dứa dại, cành liễu, hạt mã đề (xa tiền tử), hạt gấc, hạt cải củ, nghệ đen, râu ngô... Các thảo dược này có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với nhau tạo thành những bài thuốc rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ tiền và có hiệu quả ở một mức độ nhất định. Xin giới thiệu một số bài thuốc phổ biến, dễ làm, có hiệu quả để bạn đọc tham khảo và vận dụng khi cần thiết.
- Chó đẻ răng cưa 20 – 40g sắc với 600ml nước lấy 200ml, chia uống vài lần trong ngày. Cũng có thể dùng dưới dạng hãm uống thay trà.
- Nhân trần 60g, đại táo 250g, đậu xanh 125g, sắc uống hàng ngày.
- Rễ lúa nếp 100 – 150g cắt vụn, sắc lấy nước chia uống vài lần trong ngày.
- Cành và lá liễu tươi 60g sắc với 1 lít nước lấy 300ml, chia uống vài lần trong ngày.
- Bạch linh tán bột 20g, đậu đỏ 50g, ý dĩ 20g. Nấu đậu đỏ và ý dĩ thành cháo rồi cho bột bạch linh vào quấy đều, chế thêm một chút đường trắng, chia ăn hai lần trong ngày.
- Tử hoa địa đinh 30g tán bột, mỗi ngày uống 9g với nước ấm.
- Nhân trần bốn phần, hạt dành dành (chi tử) hai phần, lá mơ lông hai phần, bông mã đề hai phần. Tất cả sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày lấy 30g, hãm uống thay trà.
- Cỏ roi ngựa 60g, sắc uống hàng ngày.
- Nhân trần 30g, cúc hoa 15g, hãm uống thay trà.
- Râu ngô, kim tiền thảo, nhân trần, mỗi thứ 9g, sắc hoặc hãm uống.
- Rễ cây bông bảy cái sắc lấy nước chia uống hai lần trong ngày.
- Ngọn bầu non 50g đem nấu với củ cải và đậu phụ làm canh ăn.
- Cỏ lưỡi rắn 500g, nhân trần 150g, cam thảo sống 50g. Tất cả đem sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày dùng 60g, hãm uống thay trà.
- Nhân trần 150g, hạt dành dành sao đen 90g, vỏ quýt khô 70g. Tất cả đem sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày dùng 30g, hãm uống thay trà.
- Rễ cỏ tranh 400g, nhân trần 150g, bán biên liên 300g. Tất cả sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày dùng 50g, hãm uống thay trà.
- Ngũ vị tử tán vụn 100g, mỗi ngày uống 5g với nước ấm.
Cho đến nay, một số cây cỏ nêu trên đã được khoa học hiện đại nghiên cứu chứng minh tác dụng trị liệu bệnh viêm gan trên thực nghiệm và lâm sàng. Ví như, nhân trần có tác dụng kháng khuẩn, ức chế sự phát triển của virút viêm gan, lợi mật, bảo hộ tế bào gan, tiêu viêm giải nhiệt, lợi niệu, nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể; cây chó đẻ răng cưa (diệp hạ châu) có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, diệt nấm, bảo hộ tế bào gan và ức chế virút viêm gan B. Một nghiên cứu lâm sàng sơ bộ trên 37 người mang virút viêm gan B với liều 200mg trong 30 ngày cho thấy có 22 người (59%) đã mất kháng nguyên bề mặt HBsAg của viêm gan B khi xét nghiệm ở ngày 15 – 20 và sau khi kết thúc liệu trình điều trị... Điều đó cho thấy, việc sử dụng cây cỏ theo kinh nghiệm của đông y để phòng chống viêm gan là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta phải có quan điểm thực sự cầu thị, nghiêm túc tiến hành khảo sát nghiên cứu, để từ đó đưa ra những sản phẩm có giá trị giúp cho quá trình phòng trị bệnh viêm gan có hiệu quả và đảm bảo an toàn.
Xem thêm…
Viêm gan là một trong những căn bệnh được đông y đề cập đến từ hàng nghìn năm nay trong phạm vi các chứng bệnh như hoàng đản, cấp hoàng, hiếp thống, tích tụ... Các bài thuốc mang tính kinh điển và kho tàng kinh nghiệm dân gian điều trị viêm gan với cây cỏ quen thuộc quanh nhà, quanh vườn cũng hết sức phong phú. Bên cạnh các vị thuốc nổi tiếng như nhân trần, chi tử... đã từng được biết đến và nghiên cứu khá sâu, còn rất nhiều những cây cỏ quen thuộc với đời sống hàng ngày được dùng để phòng chống viêm gan như chó đẻ răng cưa (diệp hạ châu), bồ công anh, cỏ tím (tử hoa địa đinh), cỏ lưỡi rắn (bạch hoa xà thiệt thảo), cỏ roi ngựa (mã tiên thảo), thài lài tía, rễ cỏ tranh, sắn dây, phèn đen, bản lam căn, cối xay, kim tiền thảo, rễ bươm bướm, rau má, rễ lúa nếp, rễ cây bông, rễ và quả dứa dại, cành liễu, hạt mã đề (xa tiền tử), hạt gấc, hạt cải củ, nghệ đen, râu ngô... Các thảo dược này có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với nhau tạo thành những bài thuốc rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ tiền và có hiệu quả ở một mức độ nhất định. Xin giới thiệu một số bài thuốc phổ biến, dễ làm, có hiệu quả để bạn đọc tham khảo và vận dụng khi cần thiết.
- Chó đẻ răng cưa 20 – 40g sắc với 600ml nước lấy 200ml, chia uống vài lần trong ngày. Cũng có thể dùng dưới dạng hãm uống thay trà.
- Nhân trần 60g, đại táo 250g, đậu xanh 125g, sắc uống hàng ngày.
- Rễ lúa nếp 100 – 150g cắt vụn, sắc lấy nước chia uống vài lần trong ngày.
- Cành và lá liễu tươi 60g sắc với 1 lít nước lấy 300ml, chia uống vài lần trong ngày.
- Bạch linh tán bột 20g, đậu đỏ 50g, ý dĩ 20g. Nấu đậu đỏ và ý dĩ thành cháo rồi cho bột bạch linh vào quấy đều, chế thêm một chút đường trắng, chia ăn hai lần trong ngày.
- Tử hoa địa đinh 30g tán bột, mỗi ngày uống 9g với nước ấm.
- Nhân trần bốn phần, hạt dành dành (chi tử) hai phần, lá mơ lông hai phần, bông mã đề hai phần. Tất cả sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày lấy 30g, hãm uống thay trà.
- Cỏ roi ngựa 60g, sắc uống hàng ngày.
- Nhân trần 30g, cúc hoa 15g, hãm uống thay trà.
- Râu ngô, kim tiền thảo, nhân trần, mỗi thứ 9g, sắc hoặc hãm uống.
- Rễ cây bông bảy cái sắc lấy nước chia uống hai lần trong ngày.
- Ngọn bầu non 50g đem nấu với củ cải và đậu phụ làm canh ăn.
- Cỏ lưỡi rắn 500g, nhân trần 150g, cam thảo sống 50g. Tất cả đem sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày dùng 60g, hãm uống thay trà.
- Nhân trần 150g, hạt dành dành sao đen 90g, vỏ quýt khô 70g. Tất cả đem sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày dùng 30g, hãm uống thay trà.
- Rễ cỏ tranh 400g, nhân trần 150g, bán biên liên 300g. Tất cả sấy khô, thái vụn, trộn đều, mỗi ngày dùng 50g, hãm uống thay trà.
- Ngũ vị tử tán vụn 100g, mỗi ngày uống 5g với nước ấm.
Cho đến nay, một số cây cỏ nêu trên đã được khoa học hiện đại nghiên cứu chứng minh tác dụng trị liệu bệnh viêm gan trên thực nghiệm và lâm sàng. Ví như, nhân trần có tác dụng kháng khuẩn, ức chế sự phát triển của virút viêm gan, lợi mật, bảo hộ tế bào gan, tiêu viêm giải nhiệt, lợi niệu, nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể; cây chó đẻ răng cưa (diệp hạ châu) có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, diệt nấm, bảo hộ tế bào gan và ức chế virút viêm gan B. Một nghiên cứu lâm sàng sơ bộ trên 37 người mang virút viêm gan B với liều 200mg trong 30 ngày cho thấy có 22 người (59%) đã mất kháng nguyên bề mặt HBsAg của viêm gan B khi xét nghiệm ở ngày 15 – 20 và sau khi kết thúc liệu trình điều trị... Điều đó cho thấy, việc sử dụng cây cỏ theo kinh nghiệm của đông y để phòng chống viêm gan là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta phải có quan điểm thực sự cầu thị, nghiêm túc tiến hành khảo sát nghiên cứu, để từ đó đưa ra những sản phẩm có giá trị giúp cho quá trình phòng trị bệnh viêm gan có hiệu quả và đảm bảo an toàn.
Thuốc điều trị viêm gan mạn tính hiệu quả
11:50 PM |Viêm gan virut B luôn là vấn đề có tính thời sự, nhất là ở các nước châu Á và châu Phi. Viêm gan virut B (VGB) là một bệnh truyền nhiễm ở người do virut viêm gan B (HBV) gây nên và là một bệnh để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, hơn 1/3 dân số thế giới đã từng bị nhiễm HBV với khoảng 400 triệu người mang HBV mạn tính (HBsAg dương tính). Hằng năm trên thế giới có khoảng hơn một triệu người tử vong do biến chứng của VGB mạn tính, xơ gan, ung thư gan và bệnh gan giai đoạn cuối. Mục đích điều trị VGB mạn tính là làm sạch virut, cải thiện quá trình viêm và hoại tử ở gan. Tuy nhiên, để điều trị VGB mạn tính có kết quả và thành công là một vấn đề hết sức nan giải.
Với mục tiêu trên, cho đến tháng 12/2006 đã có 4 loại thuốc điều trị HBV đã được Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) công nhận là: interferon, lamivudin, adeforvir và entercavir.
- Interferon: Interferon có hai loại a và b trong đó interferon a là thuốc sử dụng khá rộng rãi trong điều trị VGB và viêm gan mạn tính hơn một thập kỷ nay. Cơ chế tác dụng kháng virut của interferon a đã được biết khá rõ. Tuy nhiên, tác dụng kháng virut này là không đặc hiệu và hiệu quả tác dụng cũng còn hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng interferon a liều 3-5 triệu UI trong thời gian 4-6 tháng chỉ khoảng 30-40% chuyển đảo huyết thanh và khoảng 10% mất HBV-DNA. Tuy nhiên, sau ngừng thuốc một thời gian gần 5% bệnh nhân tái phát, xuất hiện HBV- DNA trở lại, mặt khác interferona nhiều tác dụng phụ, cần điều kiện bảo quản khá nghiêm ngặt (nhiệt độ từ 2 - 8oC), nên khi vận chuyển đi xa gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, người ta đã sản xuất và sử dụng peg interferona - 2a để điều trị VGB, tuy nhiên giá thành đắt và có nhiều phản ứng phụ.
- Lamivudin: Là loại thuốc tương đồng nucleoside được sử dụng điều trị viêm gan B mạn tính từ 10 năm nay. Lamivudin cũng tương tự như các chất nucleoside gây ức chế quá trình tổng hợp DNA của virut. Sử dụng lamivudin liều 100mg hằng ngày sau 12 tháng thấy tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh là 16 - 18% (so với nhóm giả dược chỉ có 4 - 6% chuyển đảo huyết thanh).
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng hiện tượng kháng thuốc xảy ra tỷ lệ thuận với thời gian dùng thuốc. Sau 4 năm sử dụng tỷ lệ kháng thuốc lên tới 70% và hơn nữa, khả năng tái phát sau khi dùng thuốc là khá cao. Thuốc ít độc, dùng kéo dài gây tốn kém.
- Adeforvir: Cũng là thuốc thuộc nhóm tương đương nucleoside được sử dụng nhiều nước trên thế giới và được nhập vào Việt Nam từ tháng 11/2004. Thuốc có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut. Người ta nhận thấy tỷ lệ kháng thuốc của adeforvir ngày càng cao và có những cơn bùng phát viêm gan cấp và nặng trên bệnh nhân ngừng thuốc.
- Entercavir (tên thương mại của Baraclude) là một đồng đẳng nucleoside, một chất guanosine có hoạt tính chọn lọc kháng lại HBV. Tên hóa học của entecavir là 2 - amino – 1,9- dihydro - 9[(1S,3R,4S) – 4hydroxy – 3 –(hydroxymethyl) – 2 menthylenecyclopentyl] 6 H – purin – 6 – one, monohydrate. Công thức phân tử là C12H15N5O3-H2O trọng lượng phân tử 295,3 .
Entecavir được sử dụng trong điều trị viêm gan B từ đầu năm 2005, tỷ lệ kháng thuốc chưa thấy công bố sau 2 năm điều trị. Song, cũng có một số ít trường hợp kháng thuốc được phát hiện ở những ca đã kháng lamivudin.. Đây là loại thuốc điều trị viêm gan B mạn tính bằng cách giảm số lượng virut, giảm nguy cơ xơ gan và ung thư gan. Thuốc chống virut với cơ chế tác dụng ức chế chọn lọc cả giai đoạn tổng hợp trong quá trình nhân bản (khởi đầu, sao chép ngược và tổng hợp ADN) của HBV trong gan. Baraclude được chỉ định điều trị cho người lớn có bằng chứng virut đang sao chép hoặc bị tăng dai dẳng các aminotranserase huyết thanh (ALT hoặc AST), hay bệnh đang hoạt động về phương diện mô học. Thời gian điều trị tùy theo đáp ứng, thường là từ 24-48 tuần.
Gần đây, FDA chấp thuận đưa vào dược phẩm mới chống virut có tên gọi telbivudin, thuốc có ít tác dụng phụ, sau 2 năm thử nghiệm đã tỏ ra có hiệu quả. Thuốc một mặt chữa trị tốt hơn, mặt khác lại có tác dụng tốt với các trường hợp đã kháng với các thuốc trước đó. Ngoài ra, ưu điểm của telbivudin là có thể kết hợp với các dược phẩm cũ đã được sử dụng để điều trị diệt virut viêm gan B tốt hơn. Thuốc hiện mới được bán ở Mỹ, trong tương lai gần sẽ được bán rộng rãi ở các thị trường dược trên thế giới.
Việc phát hiện qua các triệu chứng như mệt mỏi, ngứa, sốt nhẹ, đau tức vùng gan, nước tiểu sẫm màu... và qua xét nghiệm chứng minh cần được chữa trị kịp thời tránh chuyển sang mạn tính. Các thuốc trên đây thực chất không thể chữa trị được dứt điểm bệnh gan đã mắc mà chỉ có vai trò ngăn chặn và hoặc tái tạo một phần, giảm thiểu sự phá hoại của virut cải thiện các triệu chứng bệnh lý mà thôi. Tốt nhất và trước tiên phải biết giữ gìn cho gan khỏe mạnh.
Xem thêm…
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, hơn 1/3 dân số thế giới đã từng bị nhiễm HBV với khoảng 400 triệu người mang HBV mạn tính (HBsAg dương tính). Hằng năm trên thế giới có khoảng hơn một triệu người tử vong do biến chứng của VGB mạn tính, xơ gan, ung thư gan và bệnh gan giai đoạn cuối. Mục đích điều trị VGB mạn tính là làm sạch virut, cải thiện quá trình viêm và hoại tử ở gan. Tuy nhiên, để điều trị VGB mạn tính có kết quả và thành công là một vấn đề hết sức nan giải.
Với mục tiêu trên, cho đến tháng 12/2006 đã có 4 loại thuốc điều trị HBV đã được Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) công nhận là: interferon, lamivudin, adeforvir và entercavir.
- Interferon: Interferon có hai loại a và b trong đó interferon a là thuốc sử dụng khá rộng rãi trong điều trị VGB và viêm gan mạn tính hơn một thập kỷ nay. Cơ chế tác dụng kháng virut của interferon a đã được biết khá rõ. Tuy nhiên, tác dụng kháng virut này là không đặc hiệu và hiệu quả tác dụng cũng còn hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng interferon a liều 3-5 triệu UI trong thời gian 4-6 tháng chỉ khoảng 30-40% chuyển đảo huyết thanh và khoảng 10% mất HBV-DNA. Tuy nhiên, sau ngừng thuốc một thời gian gần 5% bệnh nhân tái phát, xuất hiện HBV- DNA trở lại, mặt khác interferona nhiều tác dụng phụ, cần điều kiện bảo quản khá nghiêm ngặt (nhiệt độ từ 2 - 8oC), nên khi vận chuyển đi xa gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, người ta đã sản xuất và sử dụng peg interferona - 2a để điều trị VGB, tuy nhiên giá thành đắt và có nhiều phản ứng phụ.
- Lamivudin: Là loại thuốc tương đồng nucleoside được sử dụng điều trị viêm gan B mạn tính từ 10 năm nay. Lamivudin cũng tương tự như các chất nucleoside gây ức chế quá trình tổng hợp DNA của virut. Sử dụng lamivudin liều 100mg hằng ngày sau 12 tháng thấy tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh là 16 - 18% (so với nhóm giả dược chỉ có 4 - 6% chuyển đảo huyết thanh).
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng hiện tượng kháng thuốc xảy ra tỷ lệ thuận với thời gian dùng thuốc. Sau 4 năm sử dụng tỷ lệ kháng thuốc lên tới 70% và hơn nữa, khả năng tái phát sau khi dùng thuốc là khá cao. Thuốc ít độc, dùng kéo dài gây tốn kém.
- Adeforvir: Cũng là thuốc thuộc nhóm tương đương nucleoside được sử dụng nhiều nước trên thế giới và được nhập vào Việt Nam từ tháng 11/2004. Thuốc có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut. Người ta nhận thấy tỷ lệ kháng thuốc của adeforvir ngày càng cao và có những cơn bùng phát viêm gan cấp và nặng trên bệnh nhân ngừng thuốc.
- Entercavir (tên thương mại của Baraclude) là một đồng đẳng nucleoside, một chất guanosine có hoạt tính chọn lọc kháng lại HBV. Tên hóa học của entecavir là 2 - amino – 1,9- dihydro - 9[(1S,3R,4S) – 4hydroxy – 3 –(hydroxymethyl) – 2 menthylenecyclopentyl] 6 H – purin – 6 – one, monohydrate. Công thức phân tử là C12H15N5O3-H2O trọng lượng phân tử 295,3 .
Entecavir được sử dụng trong điều trị viêm gan B từ đầu năm 2005, tỷ lệ kháng thuốc chưa thấy công bố sau 2 năm điều trị. Song, cũng có một số ít trường hợp kháng thuốc được phát hiện ở những ca đã kháng lamivudin.. Đây là loại thuốc điều trị viêm gan B mạn tính bằng cách giảm số lượng virut, giảm nguy cơ xơ gan và ung thư gan. Thuốc chống virut với cơ chế tác dụng ức chế chọn lọc cả giai đoạn tổng hợp trong quá trình nhân bản (khởi đầu, sao chép ngược và tổng hợp ADN) của HBV trong gan. Baraclude được chỉ định điều trị cho người lớn có bằng chứng virut đang sao chép hoặc bị tăng dai dẳng các aminotranserase huyết thanh (ALT hoặc AST), hay bệnh đang hoạt động về phương diện mô học. Thời gian điều trị tùy theo đáp ứng, thường là từ 24-48 tuần.
Gần đây, FDA chấp thuận đưa vào dược phẩm mới chống virut có tên gọi telbivudin, thuốc có ít tác dụng phụ, sau 2 năm thử nghiệm đã tỏ ra có hiệu quả. Thuốc một mặt chữa trị tốt hơn, mặt khác lại có tác dụng tốt với các trường hợp đã kháng với các thuốc trước đó. Ngoài ra, ưu điểm của telbivudin là có thể kết hợp với các dược phẩm cũ đã được sử dụng để điều trị diệt virut viêm gan B tốt hơn. Thuốc hiện mới được bán ở Mỹ, trong tương lai gần sẽ được bán rộng rãi ở các thị trường dược trên thế giới.
Việc phát hiện qua các triệu chứng như mệt mỏi, ngứa, sốt nhẹ, đau tức vùng gan, nước tiểu sẫm màu... và qua xét nghiệm chứng minh cần được chữa trị kịp thời tránh chuyển sang mạn tính. Các thuốc trên đây thực chất không thể chữa trị được dứt điểm bệnh gan đã mắc mà chỉ có vai trò ngăn chặn và hoặc tái tạo một phần, giảm thiểu sự phá hoại của virut cải thiện các triệu chứng bệnh lý mà thôi. Tốt nhất và trước tiên phải biết giữ gìn cho gan khỏe mạnh.
Các loại thuốc điều trị viêm gan B hiệu quả
11:46 PM | Tại sao bệnh viêm gan b lại được coi là một căn bệnh nguy hiểm ? và cách chữa bệnh viêm gan b như thế nào?
Đây là căn bệnh lây lan lặng lẽ, tiến triển âm thầm. Đa số người bị nhiễm siêu vi B đều không biết là mình bị nhiễm và có thể vô tình lây sang người khác qua đường máu. Đa số người lớn bị nhiễm đều có thể loại trừ siêu vi B dễ dàng. Tuy nhiên đa số trẻ sơ sinh và trẻ em bị nhiễm đều không thể loại trừ được siêu vi khuẩn này và sẽ trở thành người mang siêu vi B mạn tính. Cứ 4 người mang siêu vi B mạn tính sẽ có 1 người bị thiệt mạng do xơ gan và ung thư gan trong suốt cuộc đời của họ. Siêu vi B có thể thầm lặng tấn công gan trong nhiều năm mà bệnh nhân không hề hay biết. Đến khi bệnh nhân cảm thấy cần đi khám bệnh thì thường bệnh đã vào giai đoạn cuối. Nhiều bệnh nhân đã chết do ung thư gan vẫn không biết thủ phạm chính là siêu vi khuẩn B. Bệnh viêm gan siêu vi B có thể phát hiện sớm một cách dễ dàng nhờ vào các xét nghiệm máu đơn giản. Việc phát hiện sớm viêm gan B mạn tính giúp gia tăng hy vọng ngăn ngừa biến chứng xơ gan và ung thư gan bằng cách khám sức khỏe định kỳ và điều trị với những loại thuốc đặc trị mới.
Có rất nhiều loại thuốc giúp điều trị viêm gan b điều trị viêm gan b
Interferon:
Interferon có hai loại a và b trong đó interferon a là thuốc sử dụng khá rộng rãi trong điều trị VGB và viêm gan mạn tính hơn một thập kỷ nay. Cơ chế tác dụng kháng virut của interferon a đã được biết khá rõ. Tuy nhiên, tác dụng kháng virut này là không đặc hiệu và hiệu quả tác dụng cũng còn hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng interferon a liều 3-5 triệu UI trong thời gian 4-6 tháng chỉ khoảng 30-40% chuyển đảo huyết thanh và khoảng 10% mất HBV-DNA. Tuy nhiên, sau ngừng thuốc một thời gian gần 5% bệnh nhân tái phát, xuất hiện HBV- DNA trở lại, mặt khác interferona nhiều tác dụng phụ, cần điều kiện bảo quản khá nghiêm ngặt (nhiệt độ từ 2 - 8oC), nên khi vận chuyển đi xa gặp nhiều khó khăn.
Lamivudin:
Là loại thuốc tương đồng nucleoside được sử dụng điều trị viêm gan b mạn tính từ 10 năm nay.
Lamivudin cũng tương tự như các chất nucleoside gây ức chế quá trình tổng hợp DNA của virut. Sử dụng lamivudin liều 100mg hằng ngày sau 12 tháng thấy tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh là 16 - 18% (so với nhóm giả dược chỉ có 4 - 6% chuyển đảo huyết thanh).
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng hiện tượng kháng thuốc xảy ra tỷ lệ thuận với thời gian dùng thuốc. Sau 4 năm sử dụng tỷ lệ kháng thuốc lên tới 70% và hơn nữa, khả năng tái phát sau khi dùng thuốc là khá cao. Thuốc ít độc, dùng kéo dài gây tốn kém.
Adeforvir:
Cũng là thuốc thuộc nhóm tương đương nucleoside được sử dụng nhiều nước trên thế giới và được nhập vào Việt Nam từ tháng 11/2004. Thuốc có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut. Người ta nhận thấy tỷ lệ kháng thuốc của adeforvir ngày càng cao và có những cơn bùng phát viêm gan cấp và nặng trên bệnh nhân ngừng thuốc.
Xem thêm…
Đây là căn bệnh lây lan lặng lẽ, tiến triển âm thầm. Đa số người bị nhiễm siêu vi B đều không biết là mình bị nhiễm và có thể vô tình lây sang người khác qua đường máu. Đa số người lớn bị nhiễm đều có thể loại trừ siêu vi B dễ dàng. Tuy nhiên đa số trẻ sơ sinh và trẻ em bị nhiễm đều không thể loại trừ được siêu vi khuẩn này và sẽ trở thành người mang siêu vi B mạn tính. Cứ 4 người mang siêu vi B mạn tính sẽ có 1 người bị thiệt mạng do xơ gan và ung thư gan trong suốt cuộc đời của họ. Siêu vi B có thể thầm lặng tấn công gan trong nhiều năm mà bệnh nhân không hề hay biết. Đến khi bệnh nhân cảm thấy cần đi khám bệnh thì thường bệnh đã vào giai đoạn cuối. Nhiều bệnh nhân đã chết do ung thư gan vẫn không biết thủ phạm chính là siêu vi khuẩn B. Bệnh viêm gan siêu vi B có thể phát hiện sớm một cách dễ dàng nhờ vào các xét nghiệm máu đơn giản. Việc phát hiện sớm viêm gan B mạn tính giúp gia tăng hy vọng ngăn ngừa biến chứng xơ gan và ung thư gan bằng cách khám sức khỏe định kỳ và điều trị với những loại thuốc đặc trị mới.
Có rất nhiều loại thuốc giúp điều trị viêm gan b điều trị viêm gan b
Interferon:
Interferon có hai loại a và b trong đó interferon a là thuốc sử dụng khá rộng rãi trong điều trị VGB và viêm gan mạn tính hơn một thập kỷ nay. Cơ chế tác dụng kháng virut của interferon a đã được biết khá rõ. Tuy nhiên, tác dụng kháng virut này là không đặc hiệu và hiệu quả tác dụng cũng còn hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng interferon a liều 3-5 triệu UI trong thời gian 4-6 tháng chỉ khoảng 30-40% chuyển đảo huyết thanh và khoảng 10% mất HBV-DNA. Tuy nhiên, sau ngừng thuốc một thời gian gần 5% bệnh nhân tái phát, xuất hiện HBV- DNA trở lại, mặt khác interferona nhiều tác dụng phụ, cần điều kiện bảo quản khá nghiêm ngặt (nhiệt độ từ 2 - 8oC), nên khi vận chuyển đi xa gặp nhiều khó khăn.
Lamivudin:
Là loại thuốc tương đồng nucleoside được sử dụng điều trị viêm gan b mạn tính từ 10 năm nay.
Lamivudin cũng tương tự như các chất nucleoside gây ức chế quá trình tổng hợp DNA của virut. Sử dụng lamivudin liều 100mg hằng ngày sau 12 tháng thấy tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh là 16 - 18% (so với nhóm giả dược chỉ có 4 - 6% chuyển đảo huyết thanh).
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng hiện tượng kháng thuốc xảy ra tỷ lệ thuận với thời gian dùng thuốc. Sau 4 năm sử dụng tỷ lệ kháng thuốc lên tới 70% và hơn nữa, khả năng tái phát sau khi dùng thuốc là khá cao. Thuốc ít độc, dùng kéo dài gây tốn kém.
Adeforvir:
Cũng là thuốc thuộc nhóm tương đương nucleoside được sử dụng nhiều nước trên thế giới và được nhập vào Việt Nam từ tháng 11/2004. Thuốc có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut. Người ta nhận thấy tỷ lệ kháng thuốc của adeforvir ngày càng cao và có những cơn bùng phát viêm gan cấp và nặng trên bệnh nhân ngừng thuốc.